Thebes (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι Thēbai; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó làm thủ đô. Thebes nằm bên bờ đông của sông Nil và cách Địa Trung Hải khoảng 800 km về phía Nam. Thành phố này không chỉ nổi tiếng vì các hoạt động văn hóa, hành chính... trong thời Ai Cập cổ đại và còn được Homer ca tụng trong tác phẩm Illiad của ông; ngày nay Thebes là một trung tâm khảo cổ cho Ai Cập học với những di tích nổi tiếng như Thung lũng các vị vua, đền Karnak, đền Luxor... cũng như các lăng mộ của các vị pharaông.
Thành phố cổ Thebes và các di tích khảo cổ tại đó đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1979.
Nguồn gốc tên gọi
Người Ai Cập cổ đại ban đầu biết đến Thebes với tên gọi là Wo'se hoặc Wase. Một was là một cây quyền trượng của các vị pharaon. Từ giai đoạn cuối của thời kỳ Tân Vương quốc trở đi, Thebes được biết đến trong tiếng Ai Cập là Niwt-'Imn, "Thành phố của Amun". Amun là vị thần đứng đầu trong số bộ ba vị thần của Thebes, các vị thần còn lại là Mut và Khonsu. Tên gọi này của Thebes xuất hiện trong Kinh thánh như là thành phố "Nōʼ ʼĀmôn" (נא אמון) trong tác phẩm Sách Nahum và là thành phố "No" (נא) được đề cập trong sách Ezekiel và sách Jeremiah
Thebes là tên gọi trong tiếng La tinh của Thebai, cách gọi theo tiếng Hy Lạp của tên gọi Ta-pe trong ngôn ngữ bình dân của người Ai Cập. Đây là tên gọi địa phương dành cho khu phức hợp đền Karnak ở bờ phía bắc của thành phố chứ không phải bản thân nó. Ngay từ thời điểm sử thi Iliad của Homer ra đời, người Hy Lạp đã phân biệt Thebes của người Ai Cập như là thành phố Thebes của Trăm Cánh Cổng (Θῆβαι ἑκατόμπυλοι, Thēbai hekatómpyloi) hoặc thành phố Thebes Trăm Cổng, trái ngược với thành phố "Thebes của Bảy Cánh Cổng "(Θῆβαι ἑπτάπυλοι, Thēbai heptapyloi) ở Boeotia, Hy Lạp
Theo cách hiểu của người Hy Lạp, Amun giữ vai trò giống như là Zeus Ammon. Do đó, tên gọi này được dịch sang tiếng Hy Lạp là Diospolis, "Thành phố của Zeus". Để phân biệt nó với các thành phố khác cũng sử dụng tên gọi này, nó được gọi là Đại Diospolis (Διόσπολις Μεγάλη, Dióspolis Megálē, tiếng Latin: Diospolis Magna). Tên gọi theo tiếng Hy Lạp này đã được sử dụng rộng rãi hơn sau khi Alexander Đại Đế chinh phục Ai Cập, khi đó đất nước này được cai trị bởi triều đại Ptolemaios gốc Macedonia.
Lịch sử
Cổ vương quốc
thumb|Khu nghĩa địa Thebes
Thebes đã có người cư trú từ khoảng năm 3200 TCN . Nó là thủ phủ của Waset, nome thứ tư của Thượng Ai Cập. Vào thời điểm đó, nó mới chỉ là một trạm giao thương nhỏ trong khi Memphis giữ vai trò như là nơi cư ngụ hoàng gia của các pharaon thời Cổ vương quốc. Mặc dù không có công trình kiến trúc nào còn tồn tại ở Thebes có tuổi đời lâu hơn các khu vực của phức hợp đền Karnak, mà có thể có niên đại từ thời kỳ Trung vương quốc, phần dưới của một bức tượng Pharaon Nyuserre thuộc vương triều thứ 5 đã được tìm thấy ở Karnak. Một bức tượng khác được vị vua của vương triều thứ 12 Senusret hiến dâng có thể đã bị chiếm đoạt và tái sử dụng, bởi vì bức tượng này có khắc một đồ hình của Nyuserre trên thắt lưng của nó. Bởi vì bảy vị vua của các vương triều từ thứ 4 đến thứ 6 xuất hiện trên bản danh sách vua Karnak, cho nên có lẽ đã có ít nhất một ngôi đền nằm trong khu vực Thebes mà có niên đại thuộc về thời kỳ Cổ vương quốc.
Thời kỳ Chuyển Tiếp đầu tiên
Vào năm 2160 TCN, một dòng dõi những vị pharaoh mới (vương triều thứ 9 và thứ 10) đã thống nhất Hạ Ai Cập và các vùng đất phía bắc của Thượng Ai Cập từ kinh đô của họ ở Herakleopolis Magna. Một dòng dõi đối địch (vương triều thứ mười một) có căn cứ tại Thebes đã cai trị phần còn lại của Thượng Ai Cập. Các vị vua Thebes là hậu duệ của vị hoàng thân Thebes, Intef Già. Người cháu nội của ông, Intef I là người đầu tiên của gia tộc này tuyên bố sử dụng một phần tước hiệu của pharaon, mặc dù quyền lực của ông ta không mở rộng xa hơn khu vực Thebes nói chung.
Thời kỳ Trung Vương quốc
thumbnail|left|[[Serekh của Intef I]]
Cuối cùng thì tới năm 2050 TCN, người con trai của Intef III là Mentuhotep II (nghĩa là "Montu được hài lòng"), đã chiến thắng được phe Herakleopolis và tái thống nhất lại Ai Cập một lần nữa dưới sự cai trị của một vị vua, và do đó đã bắt đầu thời kỳ được biết đến ngày nay với tên gọi Trung vương quốc. Mentuhotep II trị vì trong 51 năm và đã xây dựng ngôi đền tang lễ đầu tiên ở Deir el-Bahri, và nó thường được coi như là nguồn cảm hứng cho ngôi đền lớn hơn được xây dựng ngay bên cạnh sau này bởi Hatshepsut dưới thời vương triều thứ 18. Sau những sự kiện này, vương triều thứ 11 đã nhanh chóng sụp đổ, chỉ trong vòng chưa đến 20 năm từ thời điểm Mentuhotep II qua đời cho đến khi Mentuhotep IV băng hà một cách bí ẩn.
Dưới thời vương triều thứ 12, Amenemhat I đã di chuyển trung tâm quyền lực về phía Bắc tới Itjtawy. Thebes tiếp tục lớn mạnh như là một trung tâm tôn giáo bởi vì vị thần địa phương Amun đã ngày càng trở nên nổi tiếng trên khắp Ai Cập. Những tàn tích lâu đời nhất của một đền thờ dành riêng cho thần Amun có niên đại thuộc về triều đại vua Senusret I.
Bắt đầu từ giai đoạn nửa sau của vương triều thứ 12, một nhóm những cư dân người Canaan đã bắt đầu định cư ở phía đông đồng bằng châu thổ sông Nile. Họ cuối cùng đã thiết lập nên vương triều thứ 14 tại Avaris vào khoảng năm 1805 TCN hoặc khoảng năm 1710 TCN. Bằng cách đó, những cư dân châu Á này đã thiết lập quyền bá chủ đối với phần lớn khu vực đồng bằng châu thổ, ngăn cách các vùng lãnh thổ này ra khỏi ảnh hưởng của vương triều thứ 13, mà vào lúc này đã kế tục vương triều thứ 12.
Thời kỳ Chuyển tiếp Thứ Hai
thumbnail|right|Miêu tả người Châu Á (trái) và người Ai Cập (phải). Thủ lĩnh của người châu Á được gán cho tên gọi như là "Vua của vùng đất ngoại quốc", Ibsha.
Một làn sóng thứ hai của những cư dân châu Á gọi là người Hyksos (xuất phát từ Heqa-khasut, "các vị vua của những vùng đất ngoại quốc" như cách người Ai Cập gọi những vị thủ lĩnh của họ) di cư đến Ai Cập và tàn phá trung tâm quyền lực của người Canaan ở Avaris, rồi bắt đầu vương triều thứ 15 ở đó. Các vị vua Hyksos giành được thế thượng phong ở vùng Hạ Ai Cập vào đầu thời kỳ Chuyển tiếp thứ hai (1657-1549 TCN). Khi người Hyksos chiếm được Memphis trong hoặc một thời gian ngắn ngay sau triều đại của Merneferre Ay (khoảng năm 1700 TCN), các vị vua của vương triều thứ 13 đã bỏ chạy về phía nam tới Thebes và nó đã được khôi phục làm kinh đô của vương quốc.
Di tích
Đền Karnak
Đền Luxor
Đền Djeser-Djeseru
Thung lũng các vị vua
Thung lũng các nữ hoàng
Cung điện của Amenhotep III
Tàn tích của hai bức tượng Memnon
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thebes** (tiếng Hy Lạp: Θῆβαι _Thēbai_; tiếng Ả Rập: طيبة) là một trong những thành phố quan trọng nhất của Ai Cập cổ đại; hai vương triều thứ 11 và thứ 18 đã dùng nó
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
**Trung Vương quốc Ai Cập** là một giai đoạn trong lịch sử của Ai Cập cổ đại, tồn tại trong thời gian giữa khoảng năm 2050 trước Công nguyên, và 1700 trước Công nguyên, trải
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
Thủ đô hiện tại của **Ai Cập** là Cairo. Tuy nhiên, trong lịch sử, thủ đô của Ai Cập đã nhiều lần thay đổi. ## Danh sách thủ đô Ai Cập cổ đại Đây là
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|383x383px|Vị trí của Tân Vương quốc
Tân Vương quốc ở mức độ lãnh rộng lớn nhất trong thế kỷ 15 trước
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai của Ai Cập** là một thời đại của lịch sử Ai Cập, đánh dấu một khoảng thời gian khi Vương quốc Ai Cập bị rơi vào tình trạng hỗn
**Vương triều thứ Mười Bảy của Ai Cập** (**Vương triều thứ 17**) là một triều đại vua trong lịch sử Ai Cập cổ đại, bắt đầu từ năm 1580 đến năm 1550 trước Công nguyên.
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
nhỏ|[[Muhammad Ali của Ai Cập|Muhammad Ali Pasha]] **Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha** (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập
**Vương triều thứ Mười Một của Ai Cập** (**Vương triều thứ 11**) là một triều đại vua cai trị Ai Cập cổ đại. Vương triều đã tồn tại trong khoảng thời gian từ năm 2025
thumb|right|Bản đồ của Khu lăng mộ Thebes **Khu lăng mộ Thebes** là một khu lăng mộ và nghĩa địa trên bờ tây của sông Nile, đối diện với Thebes (Luxor) ở Thượng Ai Cập. Nó
nhỏ|Giấy cói toán học Rhind: chi tiết (trực tràng, phần bên trái của phần đầu tiên Bảo tàng Anh Cục Ai Cập cổ đại và Sudan, EA10057) Được luật sư người Scotland A.H. Rhind mua
**Ahmose I**, hay **Ahmosis I** hoặc **Amasis I**, là một pharaon của Ai Cập cổ đại và là người sáng lập ra Vương triều thứ 18. Ông là thành viên của hoàng gia Thebes, con
**Kamose** là vị pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 17 của Ai Cập cổ đại thuộc thành Thebes (Ai Cập) vào thời kì chiến tranh với người Hyksos, lúc đó là Vương triều thứ
**Seti II** (hay **Sethi II**, **Sethos II**), là nhà cai trị thứ năm thuộc Vương triều thứ 19 của Ai Cập cổ đại. Niên đại của ông kéo dài khoảng từ 1200/1199 đến 1194/1193 TCN.
**Ramesses II** (hay **Ramesses đại đế**, **Ramses II**, **Rameses II**, ông cũng được biết đến với tên **Ozymandias** theo tiếng Hy Lạp, từ sự chuyển ký tự từ tiếng Hy Lạp sang một phần tên
**Ramesses IX**, hay **Ramses IX**, là vị pharaon thứ 8 của Vương triều thứ 20 của Ai Cập cổ đại thời kì Tân vương quốc (cai trị: 1129-1111 TCN). Ramesses IX là người kế vị
**Twosret** (**Tawosret**, **Tausret**) được biết đến là Nữ vương cuối cùng của Ai Cập cổ đại trong các vương triều và là Pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 19. Bà được sách Manetho chép
**Amenhotep I**, hay **Amenophis I**, là vị pharaon thứ nhì của Vương triều thứ 18 thuộc Ai Cập cổ đại. Ông là con trai vua Ahmose I và khi vua cha qua đời,Amenhotep I nối
**Senenmut** (còn được viết là **Senmut**) là một quan chức Ai Cập cổ đại, đồng thời cũng là một kiến trúc sư sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18. Ông là một nhân vật
**Phaolô Ẩn Tu** (khoảng 227 - 341) còn được gọi là **Phaolô thành Thebes **hay** Phaolô Ẩn Sĩ Tiên khởi**, được coi là ẩn sĩ Kitô giáo đầu tiên, theo truyền thuyết ông đã sống
thumb|Minh họa này, từ "Cuộn giấy cói của Hunefer" (khoảng năm 1275 TCN), cho thấy nghi lễ "cân trái tim" trong Sách Chết. Trái tim của Hunefer được đặt trên đĩa cân của [[Ma'at để
nhỏ|255x255px|Sơ đồ lăng mộ ANB **Lăng mộ ANB** là một lăng mộ nằm ở phía tây của nghĩa trang Dra' Abu el-Naga', gần Thebes, Ai Cập. Đây được cho là nơi chôn cất ban đầu
**Tấm bia Chiến thắng của Merneptah**, được gọi ngắn gọn là **Tấm bia của Merneptah**, là một tấm bia đá của pharaon Merneptah (vị vua của Ai Cập cổ đại cai trị trong khoảng năm
Kheperkheperure **Ay**, hay **Aya** hoặc **Aye** hoặc **Eye** là vị pharaon thứ 14 của Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 18, vương triều đầu tiên của thời đại Tân vương quốc. Ay từng
**Seqenenre Tao** (hay **Seqenera Djehuty-aa**, **Sekenenra Taa** hoặc **The Brave**) là vị pharaon cai trị cuối cùng của vương quốc địa phương thuộc Vương quốc Thebes, Ai Cập, trong Vương triều XVII trong Thời kỳ
**Sitamun** (tiếng Ai Cập: _S3.t Jmn_, "_Con gái thần Amun_") còn được viết là **Sitamen** hoặc **Satamen**, là một công chúa, đồng thời là vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 18 trong
:_Không nên nhầm lẫn với Amun-her-khepeshef, một người con trai của Ramesses II, Amun-her-khepeshef, một người con trai của Ramesses III, và Ramesses VI Amun-her-khepeshef_ **Amenherkhepshef** (còn là **Amenherkhepshef D** để phân biệt ông với
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
**Danh sách các pharaon** của Ai Cập cổ đại bắt đầu từ giai đoạn Tiền Vương triều khoảng năm 3100 trước công nguyên tới Vương triều Ptolemaios sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh
**Akhenaten** () còn được viết là **Echnaton**, **Akhenaton**, **Ikhnaton**, và **Khuenaten**; (, có nghĩa là _Người lính của Aten_), ông còn được biết đến với tên gọi là **Amenhotep IV** (nghĩa là _thần Amun hài
thumb|Con dao găm với tên Nebkhepeshre Apepi. **Apepi** (cũng là **Ipepi**; Tiếng Ai Cập **') hoặc **Apophis** (; tên trị vì **Neb-khepesh-Re**, **A-qenen-Re** và **A-user-Re''') là một vị vua của Hạ Ai Cập dưới thời
**Nebhotepre Mentuhotep II** (cai trị: 2046 TCN - 1995 TCN) là vị pharaon đã sáng lập ra Vương triều thứ 11 thuộc Ai Cập cổ đại, vương triều đầu tiên của thời Trung Vương quốc.
**Amenmesse** (cũng gọi là **Amenmesses** hay Amenmose) là vị vua thứ năm của Vương triều thứ 19 Ai Cập cổ đại, ông có thể là con của Merneptah và hoàng hậu Takhat. Một số người
**Ramesses XI** (còn được viết là **Ramses** và **Rameses**) trị vì từ năm 1107 TCN đến 1078 TCN hay năm 1077 TCN, ông là vị vua thứ mười cũng là pharaon cuối cùng của Vương
**Thutmosis III** (sinh 1486 TCN, mất 4 tháng 3 năm 1425 TCN) còn gọi là **Thutmose** hoặc **Tuthmosis III**, (tên có nghĩa là "Con của Thoth") là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ
**Quần thể đền Karnak**, thường gọi tắt là **đền Karnak**, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của
**Vương quốc Ptolemy** ra đời với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế năm 332 TCN. Alexandros Đại Đế mang đến Ai Cập văn hóa Hy Lạp với các quan lại đa số là người
**Maaibre Sheshi** (cũng là **Sheshy**) là một vị vua của các vùng đất thuộc Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai. Vương triều, vị trí trong biên niên sử, khoảng thời gian và
**Wahibre Psamtikus I**, được người Hy Lạp gọi là **Psammeticus** hay **Psammetichus**̣(Tên La tinh hóa của tên gọi trong tiếng Hy Lạp cổ đại: Ψαμμήτιχος, dịch là Psammḗtikhos) trị vì từ 664-610 TCN, ông là
**Khasekhemre Neferhotep I** là một vị pharaon Ai Cập thuộc giai đoạn giữa của vương triều thứ 13, ông đã trị vì trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ thứ 18 TCN trong một
**Mentuhotep I** (cũng còn là **Mentuhotep-aa**, tức là "Vĩ Đại" ) có thể là một lãnh chúa Thebes và một vị vua độc lập ở vùng Thượng Ai Cập trong suốt thời kỳ Chuyển tiếp
**Amenhotep III** (tên Hy Lạp hóa là **Amenophis III**; tên tiếng Ai Cập: **Amāna-Ḥātpa**; dịch nghĩa: _Amun đẹp lòng_), còn gọi là Amenhotep Vĩ Đại là vị pharaon thứ 9 thuộc Vương triều thứ 18
**Deir el-Bahari** hoặc **Dayr al-Bahri** ( _al-Dayr al-Baḥrī_ "Tu viện phía Bắc") là một quần thể các đền thờ phục vụ cho tang lễ và tưởng niệm, và các lăng mộ nằm trên bờ tây
**Đại tư tế của Amun**, hay **Đệ nhất Tiên tri của Amun**, là một danh hiệu có cấp bậc cao nhất được phong cho những tư tế của thần Amun, vị thần tối cao trong
**Amenhotep II** (hay **Amenophis II**, có nghĩa là "Thần Amun hài lòng") là vị pharaon thứ bảy của Vương triều thứ 18 của Ai Cập. Amenhotep thừa hưởng vương quốc rộng lớn từ vua cha
**Usermaatre Setepenamun Osorkon II** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Niên đại trị vì của ông kéo dài hơn 30 năm (872 – 837
**Masaharta** (hay **Masaherta**) là một Đại tư tế của Amun tại Thebes trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông là người cai trị trên thực tế của Thượng Ai Cập khoảng từ năm 1054
**Người Hyksos** ( or ; tiếng Ai Cập: _heqa khasewet_, "các ông vua ngoại quốc"; tiếng Hy Lạp: _Ὑκσώς_ hay _Ὑξώς,_ tiếng Ả Rập: الملوك الرعاة, có nghĩa là: "các vị vua chăn cừu") là