✨Hoàng Thái Cực

Hoàng Thái Cực

Hoàng Thái Cực (chữ Hán: 皇太極; , 28 tháng 11, 1592 – 21 tháng 9 năm 1643), là vị Đại hãn thứ hai của nhà Hậu Kim, và là Hoàng đế sáng lập triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Một số ý kiến cho rằng ông mất vào năm 1644, cai trị được 17 năm. Các hậu duệ suy tôn miếu hiệu cho ông là Thanh Thái Tông (清太宗). Do ông bắt đầu thành lập Đại Thanh và dùng suốt niên hiệu Sùng Đức (崇德), nên còn có thể gọi ông là Sùng Đức Đế (崇德帝).

Năm 1626, Hoàng Thái Cực kế vị ngôi Khả hãn của cha với Hãn hiệu Thiên Thông Hãn (chữ Hán: 天聰汗; tiếng Mãn: Богд сэцэн хаан, Bogd Sechen Khan), mà với sự thông minh, cơ trí của mình, ông đã vượt qua những người anh em của mình và cũng là những ứng viên cho ngôi Đại Hãn để lên ngôi tối cao. Bằng sự quyết đoán, khôn khéo, ông đã từng bước tăng cường và củng cố vị trí quyền lực độc tôn trong bối cảnh phức tạp lúc bấy giờ.

Khi ở ngôi Hãn, Hoàng Thái Cực đã củng cố đế quốc do Nỗ Nhĩ Cáp Xích thành lập. Ông đặt nền tảng cho cuộc chinh phạt nhà Minh ở Trung nguyên, dù ông chết trước khi điều đó hoàn tất. Ông băng hà vào năm 1643 nhưng không chứng tỏ sự suy yếu tham vọng của người Mãn Châu.

Ông không ngừng mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á và các vùng xung quanh, lập nên Đại Thanh quốc (大清國). Dưới sự thống lĩnh của ông, nhà Hậu Kim và là Nhà Thanh sau đó đã chinh phục Triều Tiên, tiếp đến, trong một loạt những chiến dịch quân sự, ông đã khuất phục được vùng Nội Mông trước khi tiếp tục chiếm quyền kiểm soát vùng Hắc Long Giang (sông Amur) miền Đông Bắc của nhà Minh. Hoàng Thái Cực đã hợp nhất lãnh thổ Mãn Châu dưới quyền cai trị của ông

Hoàng Thái Cực tiếp tục tiến hành công cuộc trị vì dựa trên các nền móng của chế độ được người cha để lại, tiếp tục phát triển và hoàn thiện chế độ Bát Kỳ bằng cách mở rộng các kỳ cho người Mông Cổ tham gia, sáp nhập các kỳ của người Hán đầu tiên vào quân đội của mình. Hoàng Thái Cực cũng chấp nhận việc áp dụng nhiều cơ cấu chính trị kiểu nhà Minh vào đất nước mình, trọng dụng nhiều nhân tài xuất thân là người Hán hay quan lại cũ của Nhà Minh nhưng luôn giữ ưu thế của người Mãn Châu trong các cơ cấu đó (thông qua một hệ thống định mức phân bổ hợp lý). Đây là cuộc cải cách mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự lớn mạnh của Nhà Thanh sau này trước khi họ bị cách mạng tư sản người Hán đánh đổ để lập ra 1 quốc gia cộng hòa dân chủ, tự do. Nhà Thanh cai trị Trung Quốc hơn hai thế kỷ rưỡi nhưng về cơ bản là triều đại ngoại tộc của một đế quốc mà xét về cơ cấu chủ yếu vẫn là nhà nước quân chủ Trung Quốc truyền thống rồi bị lật đổ, đánh đuổi bởi chính người Hán Trung Hoa.

Tên gọi

Cũng như những người anh em khác của mình, ông bắt đầu mang họ Ái Tân Giác La sau năm 1616, như một hình thức xác nhận huyết thống trực hệ của Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Hầu hết trong các sách sử Trung Quốc đều thống nhất chép tên ông là Hoàng Thái Cực. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tên gọi Hoàng Thái Cực chỉ được đặt ra về sau này, khi con cháu nhà Thanh muốn nêu bật vai trò chính danh của ông trong việc kế thừa ngôi vị Hoàng đế. Củng cố giả thuyết này, các tài liệu điển tịch Hán ngữ thời Thanh Sơ thường chép tên Hoàng Thái Cực là Hoàng Thai Kê (黄台鸡) hoặc Hoàng Thai Cát (黄台吉). Mãi đến thời Thanh Cao Tông, tài liệu chính thống mới chép là Hoàng Thái Cực

Theo W. Scott Morton và C.M. Lewis, phiên âm tên Mãn của ông là Abahai hoặc "Abahay". Các tài liệu Trung Quốc, thường phiên âm ngược tên gọi này thành A Ba Hải (阿巴海), hoặc A Bột Hải (阿渤海). Tuy nhiên, các nhà sử học Trung Quốc hiện đại đã xác nhận đây là một sự nhầm lẫn giữa Hoàng Thái Cực với một mẹ kế của ông, tên là Abahai, được sử Trung Quốc ghi lại tên là A Ba Hợi (阿巴亥).

Một thuyết khác của các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng tên thật của ông là Hắc Hoàn Bột Liệt (黑还勃烈). Thuyết này được xem là có nhiều khả năng nhất, dựa trên sự biến âm rút gọn từ tiếng Mông Cổ sang Hán ngữ. Theo đó, đầu tiên, âm Hắc Hoàn (黑还) chuyển âm Hán là Hoàng (黄), tên ông trở thành Hoàng Bột Liệt (黄勃烈). Củng cố cho thuyết này là thuyết cho rằng phiên âm của từ Bột liệt thực chất xuất phát của từ Beile theo cách phát âm Mông Cổ, mà về sau được phiên âm là Bối lặc (贝勒) theo cách phát âm Mãn. Tương tự, phiên âm của từ Thai cát từ Hošoi theo cách phát âm Mông Cổ, về sau phiên âm là Hòa thạc (和碩) theo cách phát âm Mãn.

Nói cách khác, thuyết này cho rằng Hoàng Thái Cực tên thật là Hắc Hoàn (黑还, có lẽ phiên từ âm Heihai), sau được rút gọn phiên âm Hán Việt thành lại là Hoàng. Lúc nhỏ, danh hiệu của ông là Hoàng Bối lặc, đến lúc thanh niên thì gọi là Hoàng Thai cát. Về sau con cháu ông mới chép thành danh xưng Hoàng Thái Cực.

Thời niên thiếu

Hoàng Thái Cực là con trai của Nỗ Nhĩ Cáp Xích và vợ thứ là Diệp Hách Na Lạp Mạnh Cổ Triết Triết. Bà là con gái út của bối lặc Dương Cát Nỗ của bộ tộc Diệp Hách Na Lạp, được gả cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích tháng 10 năm 1588 khi mới 13 tuổi và sinh ra Hoàng Thái Cực 4 năm sau đó. Lúc bà nhập cung, chế độ hậu phi của Hậu Kim chưa được áp dụng, nên chỉ dùng chung danh xưng Phúc tấn

Bấy giờ, chính thất của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Cổn Đại (âm Mãn: Gundai), bộ tộc Phú Sát thị (âm Mãn: Fuca) đang là Đại Phúc tấn, nên bà chỉ có danh hiệu Trắc Phúc tấn. Sau khi Phú Sát Cổn Đại bị phế, bà được phong Đại Phúc tấn thay thế. Năm 1603, Nỗ Nhĩ Cáp Xích tấn công bộ tộc Diệp Hách Na Lạp, Mạnh Cổ Triết Triết uất hận mà chết khi mới 28 tuổi, sủng phi của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là A Ba Hợi trở thành Đại Phúc tấn, sau gọi là Đại phi. Khi Hoàng Thái Cực lên ngôi, ông truy tôn thụy hiệu của mẹ là "Hiếu Từ Chiêu Hiến Kính Thuận Nhân Huy Ý Đức Hiển Khánh Thừa Thiên Phụ Thánh Cao Hoàng hậu", hay gọi ngắn là "Hiếu Từ Cao Hoàng hậu".

Mẹ mất sớm khi mới 10 tuổi, từ lúc niên thiếu, Hoàng Thái Cực đã được theo cha và các anh tham dự nhiều cuộc chinh phục các bộ tộc khu vực đông bắc Trung Quốc và được đánh giá là một chiến binh hăng hái, can đảm. Không những thế, ông còn tỏ ra là người có kiến thức, giải quyết mọi việc được giao rất nhanh chóng và đúng đắn. Vì vậy, tuy chỉ là người con trai thứ tám

Những cuộc hôn nhân chính trị

Khi đến tuổi trưởng thành, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã sắp đặt cho con trai mình một cuộc hôn nhân chính trị với con gái của một thủ lĩnh của bộ tộc Mông Cổ Bột Nhi Chỉ Cân (hay còn phiên âm là Bát Nhĩ Tề Cát Đặc). Với cuộc hôn nhân này, bộ tộc Ái Tân Giác La của ông đã liên kết với bộ tộc hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, có quyền kế thừa danh nghĩa và uy tín của vị Đại hãn vĩ đại này. Điều này quả thật chứng minh tầm nhìn xa của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, khi Lâm Đan Hãn, vị Đại hãn cuối cùng của người Mông Cổ, chết vào năm 1634, con trai ông Ngạch Triết Hãn đã đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc truyền quốc của Hoàng đế Đại Nguyên cho Hoàng Thái Cực.

Ngoài người vợ có tên là Jerjer (phiên âm Hán Việt là Triết Triết), về sau ông còn cưới thêm 4 người vợ nữa cũng thuộc bộ tộc Mông Cổ Bột Nhi Chỉ Cân, trong đó nổi tiếng nhất là Bố Mộc Bố Thái (là Hiếu Trang Văn Hoàng hậu sau này), người về sau sinh hạ được Hoàng tử Phúc Lâm, sau này trở thành Thuận Trị Đế, và có vai trò quan trọng trong việc giữ lại ngôi vị cho Phúc Lâm trong cuộc tranh chấp ngôi vị Đại hãn sau khi Hoàng Thái Cực chết.

Giành quyền kế vị

Khi thành lập chế độ Gūsa (sử Trung Quốc gọi là Kỳ), Nỗ Nhĩ Cáp Xích cũng thành lập bổ nhiệm các phụ tá thân tín vào các vị trí đứng đầu Gūsa, gọi là các Hòa thạc Bối lặc (Hošoi Beile) để hợp cùng mình quản lý nhà nước Hậu Kim non trẻ.

Sau cái chết của Thái tử Chử Anh (hoặc Trử Anh), người con trai thứ hai của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Đại Thiện thay anh trai giữ ngôi vị Đại Bối lặc, nhưng vẫn không được Nỗ Nhĩ Cáp Xích lập làm người thừa kế mà chỉ được xem là một Hòa thạc Bối lặc như các vị Hòa thạc khác. Không lâu sau, đến lượt Đại Thiện và Tam bối lặc Mãng Cổ Nhĩ Thái dính vào một vụ bê bối cung đình. Chính vì vậy cho đến trước khi chết, Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn chưa kịp chỉ định người kế vị. Ông ta chỉ mới kịp trao quyền quản lý 3 Kỳ của ông ta cho A Ba Hợi để sau này giao lại cho ba con trai của bà là A Tế Cách, Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc khi họ trưởng thành.

Cuộc tranh chấp ngôi vị Đại Hãn nổ ra quyết liệt giữa các vị Hòa thạc Bối lặc. Tuy nhiên, Đại Thiện vốn đã mất nhiều ảnh hưởng, Mãng Cổ Nhĩ Thái vì chuyện giết mẹ đẻ nên cũng mất uy tín, A Mẫn không có quyền kế vị.

Kế hoạch của Hoàng Thái Cực cuối cùng cũng thành công. Vào tháng 9 âm lịch năm 1626, Bối lặc Đại Thiện tuyên bố trước đại điện: Bối lặc Hoàng Thái Cực là người tài đức đứng đầu, rất được lòng nhân tâm, mọi người đều đồng lòng cùng nhau tôn Người lên ngôi Đại Hãn. Lời tuyên bố kết thúc, các quý tộc khác cũng đồng lòng ủng hộ Hoàng Thái Cực lên kế vị ngôi Hãn, Hán văn là "Khoan Ôn Nhân Thánh Hoàng đế" (寬溫仁聖皇帝), trở thành vị Đại Hãn thế hệ thứ hai của nước Hậu Kim. Khi lên ngôi, Hoàng Thái Cực tuyên bố sẽ kế vị sự nghiệp chinh phục nhà Minh, thề sẽ trả thù cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích,).

Củng cố ngôi vị độc tôn

Sau khi lên ngôi Hãn, Hoàng Thái Cực thực hiện thỏa hiệp với Đại Thiện. Trước tiên ông thề ước với tất cả các vị Bối lặc, sau đó ba vị Đại Bối lặc dẫn đầu là Đại Thiện cùng tuyên thệ với các vị Bối lặc. Mỗi khi lên triều, khánh lễ hay tiếp kiến quần thần, ông cùng ba vị Đại Bối lặc cùng ngồi vị trí ngang hàng, cùng hướng mặt phía Nam, nhận lễ của các bồi thần, nghiễm nhiên như là tứ Hãn, đồng thời ông cũng miễn lễ quân thần cho họ, coi như anh em tương kiến.

Tuy nhiên, dù ở ngôi Đại hãn nhưng thực tế, Hoàng Thái Cực chỉ nắm quyền lực trong Kỳ mà ông ta quản lý, có địa vị không hơn một Kỳ chủ như những Kỳ chủ khác. Không những thế, cả ba vị Đại Bối lặc và các vị Kỳ chủ khác (anh em nhà Đa Nhĩ Cỗn) còn có quyền cùng nghị bàn quốc chính (chế độ bát nghị), khiến Hoàng Thái Cực bị chế ngự, không thể tự chuyên quyền được. Để thực sự nắm quyền tối cao, ông ta lần lượt thực hiện các biện pháp để loại trừ những nguy cơ đe dọa ngôi vị.

Bức tử A Ba Hợi

Mũi nhọn đầu tiên chính là người vợ được sủng ái của cha mình: A Ba Hợi (Abahai). Với danh nghĩa là người giám hộ của các con, bà khống chế 3 Kỳ, thế lực mạnh hơn cả các vị Kỳ chủ khác. Vì vậy, Hoàng Thái Cực chủ trương lợi dụng sự bất mãn của các vị kỳ chủ khác, bất ngờ tấn công và triệt hạ thế lực của bà. Tương truyền, ngay sau khi lên ngôi, ông đã hợp cùng với các vị Đại bối lặc lớn tuổi, bức Abahai phải tự sát với lý do theo di chúc của vua cha muốn tuẫn táng cùng bà. Sau đó, ông phân chia các kỳ cho các con trai của bà như sau: A Tế Cách nắm Chính Lam kỳ, Đa Nhĩ Cổn nắm Chính Hoàng kỳ, Đa Đạc được giao Tương Hoàng Kỳ

Đối thủ chính trị mạnh nhất của ông bị loại trừ chớp nhoáng. Với các đối thủ còn lại, Hoàng Thái Cực một mặt vẫn tỏ lòng tôn kính, cảm kích đối với các huynh trưởng, thực hiện các chính sách vỗ về họ. Mặt khác, vì ba Đại Bối lặc lớn tuổi vẫn đang nắm trong tay thực lực hùng hậu, khống chế một nửa thế lực trong Bát kỳ. Chính vì thế, Hoàng Thái Cực tiếp tục tìm cách phát huy thế lực của mình.

Đoạt binh A Tế Cách

A Tế Cách là con trai lớn của A Ba Hợi, là anh ruột của Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc, tuy tuổi còn trẻ, chỉ mới 20 tuổi, nhưng cũng đã từng theo cha chinh chiến, lập được công lao. Vì vậy, nhân một lỗi nhỏ của A Tế Cách, Hoàng Thái Cực đã buộc tội tự ý hành sự, không hề bàn bạc và xin ý kiến chỉ đạo của Đại Hãn và các vị Đại Bối lặc và gán tội vượt quyền, phạt giáng cấp. Quyền kiểm soát Chính Lam kỳ của A Tế Cách bị Hoàng Thái Cực thu lại.

Bên cạnh đó, để xoa dịu sự bất mãn của anh em A Tế Cách, ông mở đường cho A Tế Cách làm phó tướng cho Nhị Bối lặc A Mẫn, hẹn khi lập công sẽ phục hồi chức vị. Đồng thời, Hoàng Thái Cực tìm mọi cách để lôi kéo, ban tặng và phong nhiều danh hiệu cao quý cho hai anh em Đa Nhĩ Cổn và Đa Đạc, tạm thời hòa hoãn để họ không công kích gây nên rối loạn. Từ đây, thế lực của Hoàng Thái Cực được mở rộng, chỉ sau thế lực của Đại Thiện. Đối thủ thứ hai của ông đã bị loại trừ. Sau trận chiến tại Sarhu, để tránh sự uy hiếp của chính quyền Hậu Kim đang trở nên hùng mạnh, vua Triều Tiên bấy giờ là Quang Hải Quân đã đàm phán với Hậu Kim để tránh khỏi rơi vào một cuộc chiến khác. Tuy nhiên, 4 năm sau, năm 1623, Quang Hải Quân bị phái Tây Nhân phế truất và bị lưu đày. Lăng Dương quân được lập lên làm vua, thực hiện đường lối thân Minh chống Mãn. Phái ủng hộ Quang Hải Quân lập tức sang cầu cứu Hoàng Thái Cực. Với cớ đó, Hoàng Thái Cực ngay lập tức phát động các cuộc chiến tranh với Triều Tiên để mở rộng ảnh hưởng.

Năm 1627, một cuộc xâm lược Triều Tiên trong một cuộc chiến tranh chớp nhoáng được phát động do Nhị Bối lặc A Mẫn chỉ huy, các Bối lặc A Tế Cách, Tế Nhĩ Cáp Lãng, Nhạc Thác, Thạc Thác làm phó tướng, đốc suất 3 vạn quân Nữ Chân, với sự dẫn đường của các tướng Gang Hong-rip và Yoto. Dù có sự hỗ trợ của tướng Minh là Mao Vạn Long, quân đội nhà Lý vẫn kháng cự bạc nhược, không thể đẩy lùi sự đánh phá của quân Hậu Kim. Vua Nhân Tổ phải bỏ Hán Thành chạy trốn ra đảo Ganghwa.

Tuy nhiên, lo ngại việc Minh Triều và Mông Cổ sẽ tập kích, Hoàng Thái Cực chủ động đề xuất hòa nghị. Vua Nhân Tổ nhanh chóng chấp nhận những điều kiện "nhẹ nhàng" của Hậu Kim để họ lui quân.

Các điều kiện đó là:

Kim - Triều lập minh ước làm huynh đệ. Kim là huynh, Triều Tiên là đệ.

Triều Tiên không được sử dụng niên hiệu Thiên Khải của nhà Minh nữa.

Vương tử Yi Gak (âm Hán Việt: Lý Giác) của Triều Tiên sang Kim "tỏ tình hòa hiếu".

Kim - Triều không xâm phạm lãnh thổ của nhau.

Những điều kiện trên đã gây bất mãn cho một số Bối lặc, đứng đầu là Nhị bối lặc A Mẫn, vì cho rằng không tương xứng với uy danh của Hậu Kim. Họ đã gây nhiều cản trở cho công cuộc hòa nghị. Chính điều này đã buộc Hoàng Thái Cực phải quyết định xử lý A Mẫn một năm sau đó.

Khuất phục Mông Cổ

Sau khi mất quyền kiểm soát vùng Trung Nguyên cuối thế kỷ 14, người Mông Cổ nhiều lần tỏ rõ ý định khôi phục lại đế chế Đại Nguyên. Tuy nhiên, chiến tranh liên miên đã làm người Mông Cổ rơi vào tình thế nghiêm trọng. Họ luôn là đối tượng "tiễu trừ" của nhà Minh cũng như đối tượng chinh phạt của người Nữ Chân đang vào thời kỳ cường thịnh trở lại. Ngay từ thời Nỗ Nhĩ Cáp Xích, thông qua các cuộc liên hôn chính trị và chinh phạt, nhiều bộ lạc Mông - Mãn đã quy thuận và liên kết đồng minh với Nữ Chân hơn là với nhà Minh, kẻ thù truyền kiếp của họ.

Mặc dù vậy, vẫn còn một số bộ tộc lớn của Mông Cổ tự cho là hậu duệ kế thừa của hoàng đế Đại Nguyên, không chịu khuất phục dưới quyền lực Hậu Kim. Sau khi lên ngôi Hãn, Hoàng Thái Cực đặt chú ý đến việc loại trừ hoàn toàn những bộ tộc Mông Cổ láng giềng không thân thiện ở sát sườn Hậu Kim, luôn nuôi ý định quật cường trở lại đế chế Đại Mông Cổ. Mặt khác, người Mông Cổ vốn anh dũng, thiện chiến, có sở trường về kỵ binh, sẽ là nguồn quan trọng để bổ sung vào đội ngũ bát kỳ những chiến binh tài giỏi, đó sẽ là những đơn vị tiên phong của quân đội và là lực lượng xung phong trong các chiến dịch đánh nhà Minh sau này.

Sau chiến dịch Triều Tiên lần thứ nhất, Hoàng Thái Cực có điều kiện để khởi binh tấn công Đại Minh. Tuy nhiên, ông vẫn không quên chinh phạt Mông Cổ. Hàng loạt các cuộc chinh phạt diễn ra trong 5 năm buộc Lâm Đan Hãn (Lingdan Khan), vị Đại Hãn cuối cùng của người Mông Cổ, phải đào tẩu và chết trên đường tới Tây Tạng. Năm 1634, con trai ông là Ngạch Triết Hãn (Ejei Khan) đã phải đầu hàng người Mãn Châu và trao lại ấn ngọc truyền quốc của Hoàng đế triều Nguyên cho Hoàng Thái Cực. Năm 1635, Hoàng Thái Cực được các quý tộc Mông Cổ suy tôn làm Đại Hãn của Mông Cổ với danh hiệu Aghuda Öröshiyegči Nayiramdaghu Boghda Khagan. Từ đây, Mông Cổ trở thành một phần của đế chế Mãn Thanh.

Xâm lược Triều Tiên lần thứ hai

Xem thêm: Cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai của Mãn Châu

Sau thất bại trước quân Hậu Kim năm 1627, Triều Tiên phải nhún mình triều cống. Tuy nhiên, họ vẫn duy trì thái độ dè chừng. Nhất là sau 2 thất bại của Hoàng Thái Cực trong trận Ninh Viễn lần thứ hai và trận tập kích Bắc Kinh, Triều Tiên bắt đầu trở mặt. Vì tình thế lúc đó phải tập trung củng cố nội bộ, Hoàng Thái Cực đành "tạm tha" cho Triều Tiên. Sau khi chinh phục Mông Cổ, ông chuẩn bị xưng Đại Hãn Mông Cổ, sai sứ giả thông báo cho Triều Tiên. Phía Triều Tiên liền bắt giam sứ giả của Hậu Kim, đồng thời tuyên bố không thừa nhận minh ước Kim - Triều năm 1627.

Tháng 4 năm 1636, Hoàng Thái Cực xưng đế, cải quốc hiệu Đại Thanh. Tháng 12 năm đó, lấy lý do Triều Tiên phản bội minh ước, ông đích thân xuất chinh, dẫn 12 vạn quân của Bát kỳ Mãn Châu, Mông Cổ và Hán quân, một lần nữa xuất quân đánh chiếm Triều Tiên. đến Thanh triều "tỏ tình hòa hiếu".

Triều Tiên phải triều cống Thanh triều.

Thanh triều đánh nhà Minh, Triều Tiên phải xuất binh mã, chiến thuyền hỗ trợ.

Thanh triều cấm Triều Tiên đại tu thành trì công sự mà không được phép của Thanh triều.

Không còn cách nào khác, Nhân Tổ buộc phải chấp nhận tất cả. Sau khi minh ước được ký kết, Hoàng Thái Cực cho xây dựng bia kỷ niệm "Công đức Hoàng đế Đại Thanh" rồi rút quân về.

Với hòa ước này, đồng minh truyền thống của nhà Minh đã hoàn toàn bị đánh bại và Triều Tiên dưới triều đại nhà Lý Triều Tiên buộc phải chấm dứt công nhận nhà Minh mà phải công nhận Đế chế Thanh là bảo hộ. Trên thực tế, Triều Tiên đã là chư hầu của nhà Thanh và lên ngôi Hoàng đế. "Thanh" (清) còn có nghĩa là "Sự trong sạch", đối lập với triều đình nhà Minh thối nát và tham nhũng.

Hiện tại, người ta chưa rõ vì sao Hoàng Thái Cực chọn cái tên Mãn Châu (Tập tin:Manjui gisun.svg, Manju) thay cho tên Nữ Chân (Jurchen) để đặt cho dân tộc mình. Có thuyết cho rằng đây là từ đồng âm trong tiếng Nữ Chân cổ có nghĩa là "dũng cảm". Có thuyết cho rằng, tên tộc Mãn Châu hàm ý chỉ họ là hậu duệ của Văn Thù Sư Lợi (âm Phạn là Mañjughoṣa), vị Bồ tát của trí huệ, mà Nỗ Nhĩ Cáp Xích là một hóa thân. Tuy nhiên, trong tiếng Hán, từ "Mãn Châu" đồng âm với nghĩa "vùng đất đầy đủ, giàu có". Cả hai chữ Mãn Châu (满洲) cũng đều có bộ Thủy.

Bằng việc này, Hoàng Thái Cực đã làm giảm đi rất nhiều thành kiến của người Hán với những hành động cai trị tàn bạo của nhà Kim của người Nữ Chân do Hoàn Nhan A Cốt Đả lập nên, đã cai trị miền bắc Trung Quốc trong thế kỷ 12 và 13. Trong giai đoạn đó, nhà Kim và người Nữ Chân đã để lại những ấn tượng không tốt trong tâm thức của các thế hệ người Hán về sự tàn ác, tham lam, và miệt thị dân tộc. Chỉ bằng một thủ pháp chính trị đơn giản, Hoàng Thái Cực thể hiện ý đồ tranh thủ sự ủng hộ của cả tầng lớp sĩ tộc lẫn binh dân Trung Quốc, xóa đi những thành kiến về dân tộc mình, nâng cao uy thế chính trị để kiến lập đế quốc, thay thế và bao gồm cả lãnh thổ Trung Nguyên.

Hoàng Thái Cực cũng đổi niên hiệu từ Thiên Thông thành Sùng Đức (chữ Hán: 崇德, âm Mãn: Wesihun Erdemungge, âm Mông Cổ: Degede Erdemtü), truy tôn Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Thái Tổ Vũ Hoàng đế, sau cải thành Thái Tổ Cao Hoàng đế, sử sách gọi là Thanh Thái Tổ. Ông định kinh đô của nhà Thanh tại Thịnh Kinh, đổi tên Thịnh Kinh thành Thẩm Dương (chữ Hán: 沈阳, âm Mãn: Mukden) và cho xây dựng một cung điện quy mô tại đây. Đây trở thành đô thành của triều Thanh cho đến khi quân Thanh nhập quan, mới dời về Bắc Kinh để nắm cục diện khống chế toàn quốc.

Bãi bỏ phân biệt sắc tộc

Khác với định kiến sắc tộc hẹp hòi của cha mình, cũng như xuất phát từ quan điểm thu phục nhân tâm của người Hán, đồng thời, chuẩn bị cho việc tấn công xuống phía Nam, sau khi lên ngôi được 8 ngày, Hoàng Thái Cực lập tức ra lệnh cho phép những người dân Hán này vốn là cư dân ở các vùng biên giới hoặc tù binh chiến tranh bị người Kim bắt giữ như chiến lợi phẩm, và sử dụng họ như những nô lệ, được phép lập khu để ở riêng, biên chế thành hộ dân thông thường, chọn quan viên người Hán thanh liêm đến để cai quản. Nhờ đó, rất đông dân Hán đang là thân phận nô lệ ở các trang viên (một hình thức nông nô), được khôi phục lại địa vị của một người dân bình thường. Nhờ đó, ông có thêm được sự cộng tác của các sĩ tộc người Hán, tăng cường thế lực, hạn chế quyền lực, đi đến phá vỡ cục diện bị khống chế bởi các quý tộc Mãn bảo thủ.

Ông mạnh dạn bổ nhiệm và trọng dụng nhiều quan viên người Hán và người Mông Cổ có tài năng, cũng như chú trọng việc chiêu dụ các đối thủ về phục vụ cho mình trong cuộc chiến tranh với nhà Minh mà điển hình là Hồng Thừa Trù, Khổng Hữu Đức và Cảnh Trọng Minh sau này, không quá bận tâm hay quá hoài nghi về nguồn gốc xuất thân, hay các vấn đề về lịch sử bản thân họ. Đây có thể coi là một tư tưởng cấp tiến và đã làm rất nhiều sĩ tộc người Hán và Mông Cổ dốc hết sức mình để báo đáp ân sủng, trong đó điển hình là mưu sĩ Phạm Văn Trình.

Đây chính là bước cải cách đầu tiên của Hoàng Thái Cực, mà trọng tâm là mở rộng sự tham gia của người ngoại tộc vào những thiết chế quan trọng của Hậu Kim, là cơ sở xã hội để ông thực hiện các cuộc cải cách về chính trị và quân sự về sau này.

Cải cách nội chính

Bằng việc mở rộng việc tham chính của người ngoại tộc, Hoàng Thái Cực đã nhận được sự giúp đỡ của các mưu sĩ người Hán, từ đó bắt tay vào việc cải cách nội chính, tập trung vào hai nội dung cơ bản. Thứ nhất, củng cố chế độ tập quyền của Đại Hãn, thâu tóm quyền lực, bãi bỏ hoặc vô hiệu hóa các thế lực quý tộc Mãn bảo thủ, để thiết chế quân chủ chuyên chế phong kiến tập quyền tuyệt đối. Thứ hai, xây dựng một chế độ quan lại quy củ, tham khảo quan chế nhà Minh, xác lập cơ chế tuyển chọn quan lại theo tài năng cho tầng lớp sĩ tộc, không phân biệt sắc tộc, bồi dưỡng, chuẩn bị cho một đội ngũ quan lại sẽ giúp ông và con cháu ông cai trị người Hán sau này.

Đầu tiên, với lý do số lượng nhân sự trong các Kỳ tăng lên, ông thành lập và bổ nhiệm các chức vụ đại thần tổng quản (âm Mãn: Amban Janggin, âm Hán Việt: Lãnh Ban Chương Kinh), với chức năng phụ tá cho các Kỳ chủ. Tuy ngôi vị Kỳ chủ vẫn có địa vị cao nhất, có tính thế tập, nhưng đã có thêm các đại thần tổng quản phụ tá, thực chất mới là người điều hành, do Đại Hãn trực tiếp bổ nhiệm. Sau đó, ông tiếp tục mở rộng quyền hạn của họ, cho phép tham gia nghị bàn chính sự cùng với các Chư vương, Bối lặc, từ đó, phân tán quyền lực của các Bối lặc Bát kỳ. Chính từ đó, Hoàng Thái Cực đã có điều kiện để phá vỡ cục diện các chư vương Bối lặc lũng đoạn quyền lực, thao túng chi phối tình thế, chuyển từ chế độ nghị sự sang chế độ mệnh lệnh tối cao. và sau đó là các kỳ Hán ("Hán quân Bát Kỳ"). Ngoài mặt hai bên đều tỏ ra hòa hoãn, nhưng thực tế lại đều khẩn trương chuẩn bị cho trận chiến tiếp theo. Hoàng Thái Cực xua quân đánh Triều Tiên để giải quyết vấn đề hậu cần, chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến dài hơi, lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh. Trong khi đó Viên Sùng Hoán cũng có những bước chuẩn bị tích cực cho cuộc chiến, bằng việc ra sức tu sửa thành trì, mua sắm vũ khí, chỉnh đốn binh mã, vỗ về dân chúng.

Chiến dịch Ninh Viễn lần hai

Sau khi chinh phục Triều Tiên lần thứ nhất, Hoàng Thái Cực tiếp tục cuộc Nam chinh đánh nhà Minh đang gián đoạn của cha mình. trấn thủ Sơn Hải quan để phòng giữ quân Hậu Kim.

Việc Viên Sùng Hoán được phục chức và tiếp tục chỉnh đốn phòng ngự ở Liêu Đông làm cho Hoàng Thái Cực không thể thực hiện được kế hoạch nam chinh của mình một cách thuận lợi. Ông biết rằng không dễ dàng vượt Sơn Hải Quan vì Ninh Viễn và Cẩm Châu phòng thủ cẩn mật, khó lòng công phá. Vì vậy ông quyết định đổi hướng tấn công, đi vòng qua Liêu Đông để tấn công vào Bắc Kinh.

Lợi dụng cơ hội hầu hết quân chủ lực của nhà Minh đang tập trung ở phía Nam, bao vây quân Lý Tự Thành tại Xa Sương Hạp,

Quân Minh kháng cự yếu ớt vì bị bất ngờ trước sức cơ động quá nhanh của quân Kim. Vua Sùng Trinh vội vàng tăng cường phòng thủ, vừa hạ lệnh cho quân từ các nơi hỏa tốc về kinh thành hỗ trợ. Tổng binh nhà Minh là Mãn Quế cố gắng chỉ huy chống lại bên ngoài cửa Đức Thắng Môn và An Định Môn. Pháo binh trên thành của nhà Minh liền bắn yểm trợ, nhưng họ lại bắn nhầm vào cả quân đội của mình, khiến quân Minh bị tổn thất không ít, bản thân Mãn Quế cũng bị thương, đành phải dẫn tàn quân lui trở vào thành cố thủ chờ viện binh.

Việc quân Hậu Kim bất ngờ tập kích Bắc Kinh nằm ngoài dự liệu của Viên Sùng Hoán, vì vậy, khi biết tin quân Kim vòng qua Liêu Đông, Viên Sùng Hoán vội vàng xuất binh chặn đường tiến quân của Hậu Kim. Tuy nhiên, quân Hậu Kim tiến quá nhanh, liên tục hạ các thành trì trên đường và tiến đến sát ngoại thành Bắc Kinh.

Hoàng đế Sùng Trinh là một người độc đoán lại đa nghi, sẵn có lòng nghi ngờ Viên Sùng Hoán không thực sự trung thành, cứu binh chậm trễ, vì vậy, lập tức triệu Viên Sùng Hoán vào triều đình vấn tội, trách cứ ông tại sao đưa viện binh về quá trễ, rồi hạ lệnh bắt ông vào ngục. Tháng 8 năm 1630, sau hơn nửa năm bị giam trong ngục, Viên Sùng Hoán bị xét xử vào tội "dối vua phản quốc", tội thông đồng với quân địch với lập luận là: quân địch tự ý thoái lui chứ không phải bị Viên Sùng Hóa đánh bại, Viên Sùng Hoán cũng không đuổi theo quân địch mà đóng quân ở lại kinh thành là có ý đồ. Tội danh này phải xử cực hình: Ngũ mã phân thây (5 ngựa xé xác) trước cổng kinh thành, vợ con thì bị bắt đi đày cách xa 3.000 dặm.

Đau đớn nhất cho Viên Sùng Hoán là kể cả những người dân chúng kinh thành mà ông hết lòng bảo vệ, cũng cho rằng Viên Sùng Hoán cấu kết và dẫn đường cho giặc Kim vào xâm lược nên ai cũng hận ông đến tận xương tủy. Sau khi ông thọ hình trước cổng thành, nhiều người đã tranh giành thân xác ông như muốn ăn tươi nuốt sống để thỏa nỗi thù hận.

Tung hoành vùng quan ngoại

Tuy diệt trừ được Viên Sùng Hoán, Hoàng Thái Cực vẫn nhận thấy quân Hậu Kim chưa đủ khả năng công phá Đại Minh, cũng như chưa đủ lực lượng để đánh dài ngày với lực lượng đông đảo của Minh triều. Ông quyết định trước mắt phải tiếp tục duy trì thế trận đánh tiêu hao binh lực của nhà Minh, đồng thời với việc tiếp tục phát triển lực lượng. Vì vậy, trên đường rút quân, ông tranh thủ tập kích Lư Câu Kiều, đánh tan rã một lực lượng 4 vạn quân do Mãn Quế và một số tổng binh khác chỉ huy đang đóng tại bên ngoài cửa thành Vĩnh Định Môn.

Cuối năm 1630, Hoàng Thái Cực lại chuyển quân đến Thông Châu, rồi tiến về phía đông để chiếm bốn thành Thông Hóa (Tôn Hóa), Vĩnh Bình (Thủy Bình), Thiên An, Loan Châu (đều nằm trong tỉnh Hà Bắc hiện nay), rồi giao cho Đại Bối lặc A Mẫn phòng giữ bốn thành mới chiếm này.

Năm 1635, Hoàng Thái Cực kéo quân về Thạnh Kinh (Thẩm Dương) để dưỡng sức binh sĩ, chờ thời cơ đánh chiếm Trung Nguyên. Với tài trí, sự khôn khéo, lòng quyết tâm, tính kiên trì đã giúp ông hoàn thành nên đại nghiệp dù chưa trọn vẹn, là vị Hoàng Đế khai quốc của triều Thanh.

Gia đình

Hậu phi

Trong các bà vợ của ông cũng như của những người anh em, có nhiều bà có quan hệ cận huyết với nhau. Ngoài yếu tố phong tục của người Mãn Châu, ngoài ra việc hôn nhân này cũng có yếu tố chính trị đối với việc củng cố sự thống trị của Hoàng tộc.

Người vợ của ông nổi tiếng nhất là Đại Ngọc Nhi, được xưng tụng là "Đệ nhất mỹ nhân" của tộc Mãn-Mông. Sau khi lấy ông, Ngọc Nhi được phong làm Trang phi ở tại Vĩnh Phúc cung. Bà sinh ra Hoàng tử Phúc Lâm sau này là vua Thuận Trị, sau này bà được phong là Hiếu Trang Hoàng thái hậu. Tương truyền, bà được cho là có liên quan đối với cái chết của Hoàng Thái Cực vì khi Hoàng Thái Cực chết từng có tin đồn là bà có qua lại với Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn. Tuy nhiên, đương thời việc chị dâu lấy em chồng đối với tập tục của người Mãn là rất bình thường.

Hậu duệ

Ông có tổng cộng 11 con trai, 14 con gái. Trong số 11 hoàng tử của ông chỉ có bảy người sống quá tuổi 16 (trưởng thành), 4 người chết yểu; 13/14 công chúa vượt qua tuổi 16. Tính chung tỷ lệ con cái chết yểu là 20%.

Hoàng nam

Hoàng nữ

Thông tin khác

Hoàng Thái Cực nhân vật được phản ánh qua các bộ phim truyền hình, đặc biệt là trong loạt phim truyền hình về thời kỳ nhà Thanh của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc. Ngoài ra một số bộ phim khác cũng đề cập về nhân vật này như:

  • Ngoài ra còn có thể kể đến bộ phim "Võ tướng Viên Sùng Hoán" do Đài Truyền hình tỉnh Quảng Đông sản xuất với sự tham gia của các diễn viên Mạc Thiếu Thông, Lương Tiểu Băng...
  • Hoàng Thái Cực còn là một nhân vật trong bộ truyện tranh võ hiệp có tên là Thiên Hạ Vô Địch (天下无敌) của tác giả Hồ Thiệu Quyền. Bộ truyện tranh này được xuất bản tại Việt Nam vào năm 1999 bởi Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, sau đó Nhà xuất bản Phương Đông tái bản vào năm 2008.
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hoàng Thái Cực** (chữ Hán: 皇太極; , 28 tháng 11, 1592 – 21 tháng 9 năm 1643), là vị Đại hãn thứ hai của nhà Hậu Kim, và là Hoàng đế sáng lập triều đại
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Nhân Thọ Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 仁壽皇太后; ; 28 tháng 4 năm 1660 - 25 tháng 6 năm 1723) hay còn gọi là **Hiếu Cung Nhân hoàng hậu** (孝恭仁皇后), là phi tần của Thanh
**Từ Cung Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 慈宮皇太后; 28 tháng 1 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1980), phong hiệu chính thức là **Đoan Huy Hoàng thái hậu** (端徽皇太后), là phi thiếp của Hoằng
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Thái hoàng thái hậu** (chữ Hán: 太皇太后; Kana: たいこうたいごうTaikōtaigō; Hangul: 태황태후Tae Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Grand Empress Dowager_ hay _Grand Empress Mother_), thông thường được giản gọi là **Thái Hoàng** (太皇) hay **Thái Mẫu**
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong quyền lộ của Dương gia Thái cực do quyền sư [[Dương Trừng Phủ biểu diễn]] **Dương thức Thái cực quyền**, **Dương gia thái cực quyền** hay **Dương thị Thái cực
Chiêu thức _Đơn tiên_ trong Thái cực quyền của họ Trần **Trần thức Thái cực quyền** (tiếng Trung: 陳式太極拳), còn được gọi là **Trần gia Thái cực quyền** (陳式太極拳) hay **Trần thị Thái cực quyền**
**Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝端文皇后, ; 13 tháng 5 năm 1600 – 17 tháng 5 năm 1649), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Thanh Thái Tông Hoàng
**A Ba Thái** (, chữ Hán: 阿巴泰, 27 tháng 7 năm 1589 - 10 tháng 5 năm 1646), Ái Tân Giác La, người Mãn Châu Chính Lam kỳ, là Hoàng tử và nhà quân sự
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Mãng Cổ Nhĩ Thái** (, , 1587 – 11 tháng 1 năm 1633), là hoàng tử và một trong Tứ đại Bối lặc thời kỳ đầu nhà Thanh. ## Cuộc đời Mãng Cổ Nhĩ Thái
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Thanh Thái Tông Kế phi** (chữ Hán: 清太宗繼妃; ? - ?) Ô Lạp Na Lạp thị, là Kế thất của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch
**Tuyên Nhân Thánh Liệt Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 宣仁聖烈高皇后, 1032 - 1093), hay còn gọi **Tuyên Nhân Hoàng thái hậu** (宣仁皇太后) hay **Tuyên Nhân hậu** (宣仁后), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Anh
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Thanh Thái Tông Nguyên phi** (chữ Hán: 清太宗元妃, ? - ?) là nguyên phối Phúc tấn của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực, Hoàng đế đầu tiên của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiến Thánh Từ Liệt Hoàng hậu** (chữ Hán: 憲聖慈烈皇后, 18 tháng 9, 1115 - 19 tháng 12, 1197), còn gọi là **Thọ Thánh Hoàng thái hậu** (壽聖皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Cao
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Từ Thánh Quang Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 慈聖光獻皇后, 1016 - 16 tháng 11, 1079), còn gọi **Từ Thánh Tào Thái hậu** (慈聖曹太后) hay **Từ Thánh hậu** (慈聖后) là Hoàng hậu thứ hai của Tống
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thanh Thái Tổ Nguyên phi** (chữ Hán: 清太祖元妃; 1560 - 1592), Đông Giai thị, tương truyền có tên gọi **Cáp Cáp Nạp Trác Thanh** (哈哈纳扎青), là Phúc tấn nguyên phối của Thanh Thái Tổ Nỗ
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Khâm Thánh Hiến Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖獻肅皇后, 1046 - 1101), là Hoàng hậu duy nhất của Tống Thần Tông Triệu Húc, đích mẫu của Tống Triết Tông Triệu Hú và Tống Huy Tông
nhỏ|phải|_Chính Hoàng kỳ_ **Chính Hoàng kỳ** (, tiếng Trung: 正黃旗; tiếng Anh: _Plain Yellow Banner_) là một kỳ trong chế độ Bát kỳ của Thanh triều và được quản lý trực tiếp bởi Hoàng đế,
**Trần Thái** (chữ Hán: 陈泰, ? – 1655), người thị tộc Nữu Hỗ Lộc, thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, quan viên, tướng lĩnh nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Ông
**Mẫn Thái hậu Nguyễn thị** (chữ Hán: 愍太后 阮氏, ? - 1799), là vợ thứ Thái tử Lê Duy Vĩ, mẹ Mẫn đế Lê Chiêu Thống, vị Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu** (, chữ Hán: 孝淑睿皇后; 2 tháng 10, năm 1760 - 5 tháng 3, năm 1797), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế,
**Khâm Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 欽聖皇后), khuê danh là **Hồ Thánh Ngâu**, không rõ năm sinh năm mất, là Hoàng hậu của nhà Trần với tư cách là chính thất của Trần Thuận Tông,
**Thanh Thái Tổ Kế phi** (chữ Hán: 清太祖继妃; ? - 1620), Phú Sát thị, nguyên danh **Cổn Đại** (袞大), là Kế Phúc tấn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích. ## Tiểu sử Kế
nhỏ|_Tương Hoàng kỳ_|thế=**Tương Hoàng kỳ** (, tiếng Trung: 鑲黃旗, tiếng Anh: _Bordered Yellow Banner_) là Kỳ đứng đầu (頭旗, ) trong chế độ Bát Kỳ của Thanh triều, lấy cờ sắc vàng viền đỏ mà
Những năm 1630, nhà Thanh ở vùng Mãn Châu trỗi dậy cực kì mạnh mẽ, bắt đầu uy hiếp cả Trung Nguyên. Dưới sự trị vì của Nỗ Nhĩ Cáp Xích Hoàng Thái Cực còn
liên_kết=https://zh.wikipedia.org/wiki/File:%E5%A4%AA%E6%9E%81%E6%AE%BF.JPG|nhỏ|Thái Cực điện ở [[Cố Cung Bắc Kinh]] **Khải Tường cung** (chữ Hán: 启祥宫) còn gọi là **Thái Cực điện** (太极殿), là một cung điện thuộc Tây lục cung tại Tử Cấm Thành, Bắc Kinh.
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường