Deutschland (sau đổi tên thành Lützow), là chiếc dẫn đầu cho lớp tàu của nó đã phục vụ cho Hải quân Đức trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên được người Đức xếp lớp như một "Panzerschiff" (tàu bọc thép); nó được tái xếp lớp thành một tàu tuần dương hạng nặng vào tháng 2 năm 1940. Tuy nhiên Hải quân Hoàng gia Anh lại đặt tên lóng cho ba chiếc thuộc lớp này là những "thiết giáp hạm bỏ túi" do chúng thực sự vượt trội về hỏa lực so với tàu tuần dương hạng nặng của hải quân mọi nước khác. Deutschland đã sống sót cho đến những tuần lễ sau cùng của chiến tranh tại châu Âu.
Thiết kế và chế tạo
Kích thước và đặc tính của những chiếc Panzerschiffe bị giới hạn đáng kể bởi Hiệp ước Versailles, vốn chỉ cho phép Đức đóng tàu chiến không vượt quá trọng lượng choán nước 10.000 tấn. Một số cải tiến kỹ thuật đã được áp dụng để chế tạo một con tàu chiến chắc chắn trong tải trọng bị giới hạn, bao gồm việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật hàn để kết nối các thành phần của lườn tàu (thay cho việc dùng đinh tán ghép các tấm thép chồng lên nhau, vốn là tiêu chuẩn vào thời đó), và động cơ diesel cho hệ thống động lực. Ngay cả như vậy, Deutschland vẫn nặng hơn giới hạn 2.000 tấn, cho dù vì những lý do chính trị, trọng lượng được công bố của nó luôn được nêu là 10.000 tấn trong giới hạn của Hiệp ước.
nhỏ|trái|[[Adolf Hitler trên chiếc Deutschland vào năm 1934]]
Hai chiếc tương tự khác trong lớp tàu của nó, Admiral Graf Spee và Admiral Scheer. Vì Deutschland là chiếc dẫn đầu trong lớp, nó kém hiện đại nhất, và không có được kiểu dáng đặc trưng một tháp chỉ huy và cầu tàu cao cùng các cột ăn-ten như của Admiral Scheer và Admiral Graf Spee, làm cho hai chiếc tàu chiến sau này có kiểu dáng bên ngoài giống như những thiết giáp hạm hiện đại.
Deutschland được đặt lườn vào tháng 2 năm 1929 tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke ở Kiel; và được hạ thủy vào tháng 5 năm 1931 có sự hiện diện của Tổng thống Đức Paul von Hindenburg. Nó hoàn tất việc trang bị vào cuối năm 1931 và thực hiện chuyến hải hành đầu tiên vào tháng 5 năm 1932.
Lịch sử hoạt động
Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, Deutschland được bố trí đến vùng bờ biển Tây Ban Nha để hỗ trợ cho phe Quốc gia của tướng Francisco Franco, với tổng cộng bảy lượt hoạt động từ năm 1936 đến năm 1939. Trong một đợt hoạt động như vậy vào ngày 29 tháng 5 năm 1937, Deutschland bị hai máy bay ném bom của phe Cộng Hòa tấn công, khiến 31 thủy thủ Đức thiệt mạng và 101 người khác bị thương.
nhỏ|trái|Deutschland vào năm [[1933]]
Để trả thù, tàu chị em của Deutschland là Admiral Scheer đã bắn phá Almería, làm thiệt mạng 19 thường dân và phá hủy 35 ngôi nhà. Các thủy thủ Đức thiệt mạng thoạt tiên được đưa đến Gibraltar và mai táng tại đây; nhưng theo mệnh lệnh của Adolf Hitler, họ được đào lên và cùng với Deutschland quay trở về Đức để cử hành một an táng trọng thể với đầy đủ nghi thức quân đội có đích thân Hitler tham dự.
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai nổ ra, nó được đổi tên thành Lützow vào tháng 11 năm 1939, vì Hitler lo ngại việc mất một tàu chiến mang tên Deutschland (Nước Đức) sẽ mang lại một hậu quả tâm lý và tuyên truyền tiêu cực đối với người dân Đức. Con tàu chị em với nó Admiral Graf Spee đã bị đánh đắm vào tháng 12 năm 1939 sau trận River Plate.
Vào tháng 2 năm 1940, nó cùng với con tàu chị em Admiral Scheer được xếp lại lớp như những tàu tuần dương hạng nặng, và vào tháng 4 năm đó nó đã tham gia chiến dịch Na Uy, nơi nó nối gót chiếc tàu tuần dương bất hạnh Blücher tiến vào vũng biển Oslofjorden. Trong trận chiến eo biển Drøbak diễn ra sau đó vào ngày 9 tháng 4 năm 1940, chiếc Blücher dẫn đầu bị đánh chìm bởi các khẩu đội pháo bờ biển bố trí tại pháo đài Oscarsborg. Mặc dù Lützow xoay sở để thoát được, hỏa lực của pháo đài vẫn gây hư hại đáng kể cho nó, khi ba phát đạn pháo thuộc khẩu đội Kopaas đã loại khỏi vòng chiến tháp pháo số 2 (Bruno) của Lützow. Sau khi Hải đội Đức rút lui ra khỏi tầm bắn của pháo đài Oscarsborg, Lützow đã sử dụng tháp pháo Anton còn lại để bắn phá xuống những người phòng thủ từ khoảng cách 11 km trong vũng biển. Pháo đài cũng bị Không quân Đức ném bom nặng nề cùng ngày hôm đó, nhưng không gây tổn thất nhân mạng cho phía Na Uy, vì binh lính phòng thủ đã rút đi theo những đường hầm ngầm dưới đất. Nhận được tin tức về việc Vua Na Uy cùng chính phủ đã triệt thoái an toàn khỏi Oslo, vị chỉ huy trưởng pháo đài, Đại tá Birger Eriksen, cho rằng mục đích chính của họ đã hoàn thành.
nhỏ|phải|Lutzow tại Kiel sau khi trúng [[ngư lôi trên đường quay trở về từ Na Uy.]]
Lützow sau đó được lệnh quay trở về Đức để sửa chữa và tái trang bị cho một nhiệm vụ cướp phá tàu buôn kéo dài tại Đại Tây Dương, nhưng nó bị trúng ngư lôi vào ngày 11 tháng 4 bởi chiếc tàu ngầm của Hải quân Hoàng gia Anh HMS Spearfish tại Skagerrak phía Bắc Đan Mạch. Cú đánh trúng đã phá vỡ hầu hết phần đuôi của con tàu, và việc sửa chữa chỉ hoàn tất vào mùa Xuân năm 1941. Đến tháng 6, Lützow lại bị trúng ngư lôi, lần này là bởi một máy bay ném ngư lôi Bristol Beaufort thuộc Phi đội 42 Không quân Hoàng gia Anh. Con tàu phải quay về cảng Kiel và trải qua sửa chữa tại đây. Vào ngày 31 tháng 12, nó có mặt trong Trận chiến biển Barents.
Nó tham gia nhiều hoạt động lẻ tẻ trong năm tiếp theo, nhưng hoạt động duy nhất đáng kể là vào tháng 9 năm 1944 trong biển Baltic, khi nó bắn pháo những mục tiêu trên bờ hỗ trợc cho lực lượng Lục quân Đức đang rút lui, một nhiệm vụ được nó tiếp tục trong những tháng tiếp theo. Lützow bị hư hại nặng bởi ba quả bom Tallboy do Không quân Hoàng gia Anh ném vào tháng 4 năm 1945, trong khi nó đang neo đậu trong vùng nước nông tại Swinemünde, Đức, và nó bị chìm xuống đáy cảng. Sau khi được sửa chữa, nó tiếp tục bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng trên bờ. Cuối cùng nó bị chính thủy thủ đoàn của nó đánh đắm vào ngày 4 tháng 5 năm 1945.
Sau chiến tranh, Hải quân Liên Xô cho nổi nó trở lại, đăng ký nó trong danh sách như một tàu tuần dương hạng nặng với cái tên sau cùng của nó (trong tiếng Nga: Лютцов), rồi sử dụng nó như một tàu mục tiêu cho hoạt động thực hành của pháo bộ binh. Sau cùng nó bị đánh chìm trong biển Baltic vào năm 1947.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Deutschland_** (sau đổi tên thành **_Lützow_**), là chiếc dẫn đầu cho lớp tàu của nó đã phục vụ cho Hải quân Đức trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên được người Đức
**_Admiral Scheer_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Deutschland_ đã phục vụ cùng Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nguyên được người Đức xếp lớp như
**_Admiral Graf Spee_** là một trong những tàu chiến nổi tiếng nhất của Hải quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với thiết giáp hạm _Bismarck_. Kích cỡ của nó bị giới
**_Blücher_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn
**_Emden_** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đức, là chiếc duy nhất trong lớp của nó, và là tàu chiến đầu tiên được Đức chế tạo sau Chiến tranh Thế giới
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**Lớp tàu tuần dương _Roon**_ là lớp một lớp tàu tuần dương bọc thép gồm hai chiếc được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào đầu Thế kỷ 20. Hai chiếc trong lớp, _Roon_
nhỏ|388x388px|Tàu tuần dương _Frunze_ thuộc [[Tàu tuần dương hạng nặng lớp Kirov|lớp _Kirov_ của Hải quân Nga]] **Tàu tuần dương**, còn được gọi là **tuần dương hạm**, là một loại tàu chiến lớn, có vai
**Lớp tàu tuần dương _Alaska**_ là một lớp bao gồm sáu tàu tuần dương rất lớn được Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Cho dù thường được gọi
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**_Petropavlovsk_** (đổi tên thành **_Tallinn_** từ ngày 1 tháng 9 năm 1944) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Liên Xô từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**Lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper**_ là một loạt năm tàu tuần dương hạng nặng, trong đó ba chiếc đã phục vụ cùng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**Danh sách các tàu chiến của Hải quân Đế quốc Đức** bao gồm tất cả các con tàu được đưa vào phục vụ trong Hải quân Đế quốc Đức (_Kaiserliche Marine_) của Đức, bao gồm
**Adolf Hitler** (20 tháng 4 năm 188930 tháng 4 năm 1945) là một chính khách người Đức, nhà độc tài của nước Đức từ năm 1933 cho đến khi tự sát vào năm 1945. Tiến
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**SMS _Yorck**_ là chiếc thứ hai cũng là chiếc sau cùng trong lớp tàu tuần dương bọc thép _Roon_ của Hải quân Đế quốc Đức. _Yorck_ được đặt tên theo Ludwig Yorck von Wartenburg, vị
**HMS _Dido_ (37)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương mang tên nó được đưa ra phục vụ trong
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**USS _Alaska_ (CB–1)**, chiếc tàu thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo vùng quốc hải lúc đó và tiểu bang hiện nay, là chiếc dẫn đầu của lớp _Alaska_ vốn dự
**Lớp tàu khu trục _Mogador**_ bao gồm hai tàu khu trục lớn () được Hải quân Pháp đặt lườn vào năm 1935 và đưa ra hoạt động vào năm 1939. Chúng là những tàu khu
**USS _Quincy_ (CA-39)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố Quincy thuộc tiểu bang
**SMS _Deutschland**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thuộc lớp _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903 đến
**SMS _Rheinland**_ là một trong bốn thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên thuộc lớp _Nassau_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức. _Rheinland_ được trang bị dàn pháo chính bao gồm mười hai
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**SMS _Grosser Kurfürst**_ là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Grosser Kurfürst_ (còn có thể viết là
**Paul Joseph Goebbels** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Giô-xép Gơ-ben** (; (29 tháng 10 năm 1897 – 1 tháng 5 năm 1945) là một chính trị gia người Đức giữ chức
nhỏ|Zeppelin và tàu [[USS Los Angeles (CA-135)|USS Los Angeles, 1931]] **Zeppelin** đã từng là những khí cầu khung cứng thành công nhất. Zeppelin được đặt tên theo nhà chế tạo chúng là Ferdinand Graf von
**SMS _Braunschweig**_ là chiếc đầu tiên trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
**SMS _Hannover**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc thứ hai trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ
**SMS _Schlesien**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, một trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ năm 1903
**SMS _Hessen**_ là chiếc thứ ba trong số năm chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Braunschweig_ được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào đầu thế kỷ 20. Nó được đặt
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**_Reichsmarine_** (**Hải quân Đế chế**) là tên gọi của Hải quân Đức dưới thời Cộng hòa Weimar và hai năm đầu tiên của Đức Quốc xã. Đây là nhánh hải quân của _Reichswehr_, tồn tại
**Lớp thiết giáp hạm _Helgoland**_ là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ hai của Hải quân Đế quốc Đức. Được chế tạo từ năm 1908 đến năm 1912, lớp bao gồm bốn chiếc: _Helgoland_, _Ostfriesland_,
**Lớp thiết giáp hạm _Braunschweig**_ là những thiết giáp hạm tiền-dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Lớp bao gồm năm chiếc:
**SMS _Kaiser Wilhelm II**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20.
**SMS _Kaiser Wilhelm der Grosse**_ là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Albrecht von Stosch** (20 tháng 4 năm 1818 tại Koblenz – 29 tháng 2 năm 1896 tại Mittelheim, Rheingau, ngày nay là một quận thuộc Oestrich-Winkel) là một Thượng tướng Bộ binh và Đô đốc
**SMS _Kaiser Barbarossa**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc lớp _Kaiser Friedrich III_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo vào giai đoạn cuối thế kỷ 19 bước sang thế kỷ 20. _Kaiser
**Lớp thiết giáp hạm _Nassau**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức; là sự đáp trả của Đức đối với việc Hải quân Hoàng gia