✨Admiral Hipper (lớp tàu tuần dương)

Admiral Hipper (lớp tàu tuần dương)

Lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ là một loạt năm tàu tuần dương hạng nặng, trong đó ba chiếc đã phục vụ cùng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một chiếc được bán trong tình trạng chưa hoàn tất cho Liên Xô vào năm 1940, và một chiếc được cải biến thành tàu sân bay nhưng chưa bao giờ hoàn tất. Tên của lớp được gọi theo tên chiếc dẫn đầu, vốn được đặt theo Đô đốc Franz von Hipper.

Thiết kế

Lớp tàu này được thiết kế theo những khái niệm về tàu tuần dương hạng nặng của Hiệp ước Hải quân Washington; tuy nhiên, dù sao Đức vẫn không phải là một nước tham gia Hiệp ước, nên đã không tuân thủ triệt để giới hạn trọng lượng choán nước ở mức 10.000 tấn. Thiết kế của lớp Admiral Hipper bắt đầu ở mức 12.500 tấn và tăng dần trong quá trình phát triển.

Dàn pháo chính của nó bao gồm tám khẩu hải pháo 8 inch/60 calibre, bắn quả đạn pháo nặng , khiến tổng lượng pháo bắn qua mạn đạt mỗi loạt bắn. Kiểu pháo này có tầm xa tối đa và tốc độ bắn 5 phát mỗi phút cho mỗi nòng pháo. Dàn pháo hạng hai bao gồm mười hai khẩu 10,5 cm/65 calibre lưỡng dụng, bắn quả đạn pháo nặng đạt được tầm xa hoặc trần bắn khi chống lại máy bay, và có thể đạt tốc độ bắn 17 phát mỗi phút cho mỗi nòng pháo. Những chiếc trong lớp Admiral Hipper so sánh được với tàu tuần dương hạng nặng của hải quân các nước khác, và được xem có kiểu dáng đẹp do có hình dạng tương tự lớp thiết giáp hạm Bismarck

Ở một chừng mực nào đó, lớp tàu mới này là lời đáp trả của Đức đối với tàu tuần dương Algérie trang bị pháo được Pháp đưa ra nhằm đối phó với các tàu tuần dương Ý tại Địa Trung Hải. Nhiều cỡ nòng pháo khác nhau đã được xem xét cho thiết kế của Admiral Hipper, nhưng cuối cùng một dàn hỏa lực gồm tám khẩu pháo đã được chọn cho Admiral Hipper. Điều này đã khiến nó có hỏa lực so sánh được với lớp tàu tuần dương County của Hải quân Hoàng gia Anh, cho dù lớn hơn đáng kể. Những vấn đề trong hệ thống động lực đã giới hạn tầm hoạt động còn ở tốc độ , kém hơn nhiều so với mục tiêu khi thiết kế ở tốc độ . Sau khi chế tạo Admiral HipperBlücher, thiết kế được mở rộng đôi chút, cho dù những đặc tính chính vẫn tương tự. Với thiết kế mới, chỉ có một chiếc, Prinz Eugen, được hoàn tất trong số ba chiếc theo kế hoạch.

Được thiết kế như một phần trong Kế hoạch Z nhiều tham vọng của hải quân Đức, trong thực tế chúng được yêu cầu hoạt động trong cả vai trò cướp tàu buôn lẫn hỗ trợ các đơn vị hải quân khác cũng như lực lượng trên bờ, và đã chứng tỏ có hiệu quả trong vai trò sau này. Tuy nhiên, trong vai trò cướp tàu buôn, chúng bị giới hạn do không có tầm hoạt động đủ xa, không được trang bị động cơ Diesel cho những chuyến đi đường trường như đối với lớp tàu tuần dương Deutschland mà đôi khi được gọi là những "thiết giáp hạm bỏ túi". Thêm vào đó, hệ thống động lực của chúng không được tin cậy; Admiral Hipper chịu đựng những lần hỏng hóc động cơ tại Đại Tây Dương và Bắc Hải, làm giới hạn hiệu quả của nó. Prinz Eugen cũng bị hỏng động cơ trong Chiến dịch Rheinübung sau khi tách ra khỏi thiết giáp hạm Bismarck, khiến nó phải từ bỏ chuyến đi săn tàu buôn đầy hứa hẹn.

Những chiếc trong lớp

Lịch sử hoạt động

Ba chiếc đầu tiên trong lớp Admiral Hipper, BlücherPrinz Eugen đã phục vụ cùng Hải quân Đức trong Thế Chiến II. Admiral Hipper bị hư hại trong một cuộc tấn công đoàn tàu vận tải vào dịp năm mới 1942 và đã không thể phục vụ cho đến tháng 1 năm 1945; nó bị đánh đắm tại xưởng tàu của Deutsche Werke ở Kiel vào ngày 2 tháng 5 năm 1945. Blücher bị đánh chìm tại Oslofjord khi Đức xâm chiếm Na Uy năm 1940. Prinz Eugen sống sót qua cuộc chiến tranh và bị đánh chìm tại đảo san hô Kwajalein vào ngày 22 tháng 12 năm 1946 sau khi trải qua các cuộc thử nghiệm bom nguyên tử. Lützow được chuyển cho Liên Xô trong tình trạng chưa hoàn tất vào năm 1940, và đã phục vụ dưới tên gọi Petropavlovsk, sau đổi thành Tallinn, tại biển Baltic; nó bị tháo dỡ vào năm 1960. Seydlitz được cho cải biến thành một tàu sân bay; dự án này không được hoàn tất và nó bị đánh đắm tại Königsberg vào ngày 10 tháng 4 năm 1945. Seydlitz được cho nổi trở lại vào năm 1946 và được chuyển đến Leningrad. Đã có kế hoạch đưa nó hoạt động trở lại, sử dụng những linh kiện của chiếc Lützow, nhưng kế hoạch bị hủy bỏ và nó được rút khỏi danh sách hải quân vào năm 1947. Seydlitz bị tháo dỡ tại Xưởng tàu Baltic vào năm 1949.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper**_ là một loạt năm tàu tuần dương hạng nặng, trong đó ba chiếc đã phục vụ cùng Hải quân của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ
**Lớp tàu tuần dương _Deutschland**_ là một lớp bao gồm ba "tàu chiến bọc thép" (_Panzerschiffe_), một dạng của tàu tuần dương được vũ trang rất mạnh, do Hải quân Đức chế tạo, trong một
**_Admiral Hipper_** (Đô đốc Hipper) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đức Quốc xã, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương _Admiral Hipper_ đã phục vụ trong Chiến tranh
**_Petropavlovsk_** (đổi tên thành **_Tallinn_** từ ngày 1 tháng 9 năm 1944) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Liên Xô từng hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được
**_Köln _** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp tàu tuần dương K được Hải quân Đức đưa ra hoạt động giữa hai cuộc thế chiến. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh
**_Blücher_** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Tham gia Chiến dịch Weserübung, cuộc tấn
**_Prinz Eugen_** (Vương công Eugène) là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _Admiral Hipper_ đã phục vụ cho Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Được xem là
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**_Seydlitz_** là một tàu tuần dương hạng nặng được chế tạo cho Hải quân Đức Quốc xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, là chiếc thứ tư thuộc lớp _Admiral Hipper_ nhưng chưa bao
nhỏ|phải|Sơ đồ cắt ngang một chiếc tàu tuần dương bọc thép tiêu biểu trình bày sơ đồ bảo vệ. Những đường đỏ là các lớp sàn tàu bọc thép phía trên và phía giữa cùng
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**Lớp tàu khu trục A** là một hải đội bao gồm tám tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chương trình Hải quân 1927. Một chiếc thứ chín,
**SMS _Roon**_ là chiếc dẫn đầu của lớp tàu tuần dương bọc thép mang tên nó của Hải quân Đế quốc Đức. Con tàu được chấp thuận chế tạo theo đạo luật Hải quân thứ
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
**HMS _Jamaica_ (44)** (sau đổi thành C44) là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Crown Colony của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đặt tên theo đảo Jamaica, vốn là một thuộc địa
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**HMS _Berwick_ (65)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu cho lớp _County_ thuộc lớp phụ _Kent_. _Berwick_ đã tham gia hoạt động trong
**HMS _Bonaventure** (31)_ là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Dido_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó được đưa ra hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và đã
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**SMS _Von der Tann**_ là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo, cũng là chiếc tàu chiến chủ lực đầu tiên của Đức vận hành bằng turbine hơi
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**USS _Wainwright_ (DD-419)** là một tàu khu trục lớp _Sims_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai; nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**_U-63_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**HMS _Glowworm_ (H92)** là một tàu khu trục lớp G được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian tại vùng
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**HMS _Achates_ (H12)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và bị đánh chìm trong Trận chiến
**HMS _Punjabi_ (L21/F21)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo người Punjab, một
**HMS _Wheatland_ (L122)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1941. Nó đã hoạt
**HMS _Hereward_ (H93)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, và đã
**HMS _Repulse**_ là một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp _Renown_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, vốn bao gồm cả chiếc _Renown_. Nó đã phục vụ trong cả cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
**HMS _Kimberley_ (F50)** là một tàu khu trục lớp K được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Tên nó được đặt theo thị trấn Kimberley, Northern Cape, nơi
**HMS _Hero_ (H99)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939,
**_U-57_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**_U-61_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá
**HMS _Obdurate_ (G39)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMS _Obedient_ (G48/D248)** là một tàu khu trục lớp O của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào
**HMS _Onslow_ (G98)** là một soái hạm khu trục dẫn đầu lớp tàu khu trục O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai
**SMS _Kaiser**_ (hoàng đế) là chiếc dẫn đầu của lớp thiết giáp hạm dreadnought mang tên nó được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiser_ được đóng
**SMS _Friedrich der Große**_ (_Friedrich Đại Đế_) là chiếc thứ hai trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Friedrich der Große_
**SMS _Bayern**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _Bayern_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chiếc tàu chiến được hạ thủy vào tháng
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**SMS _Prinzregent Luitpold**_, tên đặt theo Hoàng tử nhiếp chính Luitpold của Bavaria, là chiếc thứ năm cũng là chiếc cuối cùng trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**SMS _König**_ là chiếc dẫn đầu cho lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. König (tiếng Đức, nghĩa là Quốc vương) được
**SMS _Kronprinz**_ là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kronprinz_ được đặt lườn vào ngày tháng 11
**SMS _Markgraf**_ là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _König_ được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Markgraf_ được đặt lườn vào tháng 11 năm