✨U-31 (tàu ngầm Đức) (1936)

U-31 (tàu ngầm Đức) (1936)

U-31 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực hiện bảy chuyến tuần tra trong chiến tranh, đánh chìm được 11 tàu buôn và hai tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng , cùng gây hư hại cho một tàu chiến. U-31 bị máy bay ném bom Anh đánh chìm tại Schillig, Friesland vào tháng 3, 1940; rồi được trục vớt, sửa chữa và hoạt động trở lại.

Chuyến tuần tra thứ hai

Khởi hành từ Wilhelmshaven vào ngày 9 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ hai, U-31 cùng với U-35 được lệnh xâm nhập thẳng vào Đại Tây Dương ngang qua eo biển Manche để tiết kiệm thời gian. Tại vùng biển về phía Tây Nam Ireland vào ngày 15 tháng 9, nó phát hiện Đoàn tàu OB 4, đoàn tàu vận tải đầu tiên trong Thế Chiến II, và báo cáo vị trí đoàn tàu cho Chuẩn đô đốc Karl Dönitz, Tư lệnh lực lượng tàu ngầm Đức. Dönitz đã ra lệnh cho mọi tàu ngầm hiện diện trong khu vực tập trung tấn công OB 4. U-31 đã đánh chìm chiếc tàu buôn Anh SS Aviemore vào ngày 16 tháng 9, và sau đó đánh chìm thêm chiếc Hazelside vào ngày 24 tháng 9 trước khi quay trở về Wilhelmshaven vào ngày 2 tháng 10.

Chuyến tuần tra thứ ba

U-31 lại xuất phát từ Wilhelmshaven vào ngày 21 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ ba, với nhiệm vụ rải thủy lôi phong tỏa các vị trí neo đậu của Hạm đội Nhà Hải quân Hoàng gia Anh. Vào ngày 27 tháng 10, nó rải một bãi 18 quả thủy lôi TMB tại Loch Ewe, Scotland, rồi quay trở về Wilhelmshaven vào ngày 31 tháng 10. Bãi mìn do U-31 rải đã khiến thiết giáp hạm (33.950 tấn) bị hư hại vào ngày 4 tháng 12; và sau đó các tàu chiến phụ trợ HMS Glen Albyn và HMS Promotive cùng bị đắm vào ngày 23 tháng 12.

Chuyến tuần tra thứ tư

Khởi hành từ Wilhelmshaven vào ngày 19 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ tư, U-31 đi đến Bắc Hải để hoạt động tại khu vực phía Đông Scotland. Nó đã lần lượt đánh chìm tàu buôn Na Uy Arcturus vào ngày 1 tháng 12; tàu buôn Đan Mạch Ove Taft vào ngày 3 tháng 12; các tàu buôn Na Uy GimlePrimula cùng vào ngày 4 tháng 12; tàu buôn Estonia Agu và tàu buôn Thụy Điển Vinga cùng vào ngày 6 tháng 12. Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Wilhelmshaven vào ngày 11 tháng 12.

1940

Chuyến tuần tra thứ năm

Trong chuyến tuần tra thứ năm, cùng xuất phát và kết thúc tại Wilhelmshaven, kéo dài từ ngày 15 tháng 1 đến ngày 4 tháng 2, 1940, U-31 đã rải 12 quả thủy lôi TMC tại Loch Ewe, Scotland vào ngày 21 tháng 1.

Bị đánh chìm lần thứ nhất

Sau chuyến tuần tra thứ năm, vào ngày 11 tháng 3, 1940, đang tiến hành một chuyến chạy thử máy khi nó chịu đựng đợt không kích của Không quân Hoàng gia Anh (RAF) xuống khu vực cửa biển Schillig, Friesland. Nó trúng bốn quả bom từ một máy bay ném bom Bristol Blenheim thuộc Liên đội RAF 82, và đắm tại tọa độ với tổn thất 58 người trên tàu, bao gồm mười một công nhân xưởng tàu và hai trợ lý kỹ thuật của chi hạm đội. Chiếc tàu ngầm được trục vớt vào cuối tháng đó, được sửa chữa và hoạt động trở lại vào ngày 30 tháng 7, 1940 dưới quyền chỉ huy của hạm trường mới, Đại úy Hải quân Wilfried Prellberg.

Chuyến tuần tra thứ sáu

U-31 xuất phát từ Wilhelmshaven vào ngày 16 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ sáu, đi đến Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo Faroe và Shetland để tiến vào khu vực Đại Tây Dương và hoạt động tại khu vực phía Tây Bắc Scotland và Ireland. Nó đã đánh chìm chiếc Union Jack vào ngày 22 tháng 9, và tàu buôn Na Uy Vestvard vào ngày 27 tháng 9. Sang ngày hôm sau 28 tháng 9, nó phát hiện một tàu ngầm đối phương nên lặn xuống ẩn nấp, né tránh được một quả ngư lôi đối phương phóng ra. Đến ngày 30 tháng 9, một tàu ngầm đối phương lại tấn công với hai quả ngư lôi lúc 03 giờ 16 phút, nhưng cũng không trúng đích. Kết thúc chuyến tuần tra, U-31 đi đến cảng Lorient, tại nước Pháp vừa bị chiếm đóng sau khi Pháp thua trận, vào ngày 8 tháng 10. Tuy nhiên lúc còn cách cảng Lorient chỉ có , U-31 tiếp tục phải cơ động né tránh bốn quả ngư lôi phóng ra từ chiếc tàu ngầm Anh , rồi lặn xuống né tránh hải pháo của tàu ngầm đối phương trước khi cặp cảng an toàn.

Chuyến tuần tra thứ bảy - Bị đánh chìm lần thứ hai

U-31 khởi hành từ cảng Lorient vào ngày 19 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ bảy, cũng là chuyến cuối cùng, tại Khu vực Tiếp cận phía Tây. Một ngày sau khi xuất phát 20 tháng 10, một tàu ngầm Anh đã phóng ngư lôi tấn công U-31 nhưng không thành công. Đến ngày 29 tháng 10, nó đánh chìm tàu buôn Anh Matina .

Vào ngày 2 tháng 11, 1940, U-31 trúng mìn sâu thả từ tàu khu trục , và đắm tại vị trí về phía Tây Bắc Ireland. Hai thành viên thủy thủ đoàn đã tử trận, 44 (hoặc 43) người sống sót đã bị bắt làm tù binh chiến tranh.

Tóm tắt chiến công

U-31 đã đánh chìm mười một tàu buôn đối phương tổng tải trọng cùng hai tàu chiến phụ trợ tải trọng . Một quả thủy lôi do U-31 rải đã gây hư hại cho thiết giáp hạm :

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-31_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-21_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**_U-34_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã can
**_U-30_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-28_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-13_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
Ít nhất ba tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-31_**: * là chiếc dẫn đầu của hạ thủy năm 1914, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm
**_U-43_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-46_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**U-boat Type IX** là một lớp tàu ngầm do Hải quân Đức Quốc xã thiết kế vào các năm 1935 và 1936 như những tàu ngầm vượt đại dương, dành cho những chuyến tuần tra
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**HMS _Edinburgh_ (16)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. _Edinburgh_ thuộc về lớp phụ cuối cùng gồm hai chiếc, vốn còn bao gồm HMS
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**HMS _Garland_ (H37)** là một tàu khu trục lớp G được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian tại vùng
**HMS _Kempenfelt_ (I18)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**USS _Greer_ (DD–145)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân
**HMS _Duncan_ (D99)** là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó thoạt tiên được phân
**HMS _Comet**_ là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Nó đã phục vụ cho Hạm đội Nhà và Hạm đội Địa
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**USS _Kraken_ (SS-370)** là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên
**USS _Barry_ (DD-248)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**HMS _Nelson_ (28)** là một trong số hai chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp _Nelson_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc giữa hai cuộc thế chiến. Tên của nó được đặt
**USS _Jouett_ (DD-396)** là một tàu khu trục lớp _Somers_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được
**HMS _Griffin_ (H31)** là một tàu khu trục thuộc lớp G được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian trước chiến
**HMS _Enterprise_ (D52)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Emerald_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi
**SMS _König Albert**_, tên đặt theo Vua Albert của Saxony, là chiếc thứ tư trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất.
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**Franklin Delano Roosevelt, Sr.** (, ; 30 tháng 1 năm 188212 tháng 4 năm 1945), thường được gọi tắt là **FDR**, là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, tổng thống thứ 32
**Sân vận động Olympic** (; ) là một sân vận động thể thao nằm ở Công viên Olympic Berlin, Berlin, Đức. Sân được xây dựng ban đầu bởi Werner March cho Thế vận hội Mùa
**SMS _Kaiserin**_ (_Nữ hoàng_) là chiếc thứ ba trong lớp thiết giáp hạm _Kaiser_ của Hải quân Đế quốc Đức trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. _Kaiserin_ được đặt lườn vào ngày
**USS _Waters_ (DD-115/ADP-8)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được cải biến thành tàu vận chuyển cao tốc
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**HMS _Ardent_ (H41)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai tại vùng biển nhà và ngoài khơi
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**Lớp thiết giáp hạm _Deutschland**_ là một nhóm bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đức. Lớp bao gồm các chiếc SMS _Deutschland_, SMS _Hannover_, SMS _Pommern_, SMS _Schlesien_
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser**_ là một lớp bao gồm năm thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là lớp thiết giáp hạm dreadnought thứ
**USS _Tarbell_ (DD–142)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến
**HMS _Havock_ (H43)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939,
nhỏ|Tháp quan sát tại Hel **Khu vực phòng thủ Hel** () là một tập hợp các pháo đài của Ba Lan, được xây dựng trên bán đảo Hel ở phía bắc Ba Lan, gần với
**SMS _Hannover**_ là một thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Đế quốc Đức, chiếc thứ hai trong số năm chiếc thuộc lớp thiết giáp hạm _Deutschland_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Đức từ
**HMS _Prince of Wales_ (53)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _King George V_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng hoạt động vào giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**USS _Parrott_ (DD-218)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế