U-30 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực hiện tám chuyến tuần tra trong chiến tranh, đánh chìm một tàu chiến phụ trợ và 16 tàu buôn với tổng tải trọng , cùng gây hư hại cho hai chiếc khác. Nó tham gia chiến sự vào ngày 3 tháng 9, chỉ mười giờ sau khi Đế quốc Anh chính thức tuyên chiến với Đức, khi đánh chìm chiếc tàu buôn , vốn đang trong hành trình từ Liverpool đến Montreal, Canada, ở vị trí khoảng về phía Tây quần đảo Hebrides. Athenia trở thành con tàu đầu tiên bị đánh chìm trong cuộc xung đột, và trong số hơn 1.400 hành khách đã có 112 người thiệt mạng, 28 người trong số đó mang quốc tịch Hoa Kỳ. Sau khi đánh chìm Athenia, U-30 còn tiếp tục đánh chìm hai tàu buôn Blairlogie và .
Chuyến tuần tra thứ ba
U-30 xuất phát từ Wilhelmshaven vào ngày 23 tháng 12, 1939 cho chuyến tuần tra thứ ba, đi đến Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK giữa các quần đảo Faroe và Shetland để tiến vào khu vực Đại Tây Dương về phía Tây Nam Ireland. Nó đã đánh chìm tàu đánh cá chống ngầm HMS Barbara Robertson vào ngày 28 tháng 12, rồi cùng ngày hôm đó đã phóng ngư lôi tấn công , khiến chiếc thiết giáp hạm Anh 31.100 tấn bị hư hại và bốn thủy thủ tử trận. Sau đó nó tiến hành rải thủy lôi trước khi quay trở về Wilhelmshaven vào ngày 17 tháng 1, 1940. Bãi mìn do U-30 rải đã khiến El Oso bị đắm ngày 11 tháng 1; Gracia bị hư hại ngày 16 tháng 1; và Cairnross bị đắm ngày 17 tháng 1.
1940
Chuyến tuần tra thứ tư
Trong chuyến tuần tra thứ tư xuất phát về kết thúc cùng tại Wilhelmshaven, diễn ra từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 30 tháng 3, U-30 hoạt động dọc bờ biển phía Tây Na Uy hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung nhằm xâm chiếm đất nước này. Nó không tìm thấy mục tiêu nào trong suốt 20 ngày tuần tra.
Chuyến tuần tra thứ năm
Trong chuyến tuần tra thứ năm từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 4 tháng 5, U-30 khởi hành từ Wilhelmshaven để tiếp tục hỗ trợ cho Chiến dịch Weserübung dọc bờ biển phía Tây Na Uy. Sau đó nó đi sang phía Tây Nam về hướng Scotland sẵn sàng đánh chặn mọi tàu chiến Anh có thể được phái đi tăng cường hoạt động phòng thủ Na Uy. U-30 vẫn không đánh chìm được mục tiêu nào trong chuyến đi này trước khiq auy trở lại Wilhelmshaven.
Chuyến tuần tra thứ sáu
Khởi hành từ Wilhelmshaven vào ngày 8 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ sáu, U-30 lại đi ngang Bắc Hải, rồi băng qua khe GIUK để tiến vào vùng biển giữa Đại Tây Dương. Trong khu vực vịnh Biscay, nó lần lượt đánh chìm tàu buôn Anh Otterpool vào ngày 20 tháng 6, và tàu buôn Na Uy Randsfjord hai ngày sau đó. Đến ngày 28 tháng 6, tàu buôn Anh Llanarth trúng ngư lôi, rồi tiếp nối bởi tàu buôn Anh Beignon vào ngày 1 tháng 7 và tàu buôn Ai Cập Angele Mabro vào ngày 6 tháng 7. Thay vì quay trở về Đức, U-30 kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Lorient, tại nước Pháp vừa bị chiếm đóng sau khi Pháp thua trận, trở thành chiếc tàu ngầm U-boat Đức đầu tiên đi đến cảng này trong Thế Chiến II.
Chuyến tuần tra thứ bảy
U-30 xuất phát từ Lorient vào ngày 13 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ bảy, hoạt động hướng về phía Nam đến tận ngoài khơi Bồ Đào Nha, và đã đánh chìm tàu buôn Anh Ellaroy vào ngày 21 tháng 7. Tuy nhiên chỉ ba ngày sau đó, nó phải quay trở về Lorient, do gặp trục trặc trên một trong những động cơ diesel. Tại cảng, U-30 được phát hiện có thêm những trục trặc cơ khí khác, nên chỉ hoạt động cầm chừng và sẽ được đưa trở về Đức trong chuyến tuần tra tiếp theo.
Chuyến tuần tra thứ tám
Rời cảng Lorient, Pháp vào ngày 5 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng, U-30 đã đánh chìm tàu buôn Thụy Điển Canton vào ngày 9 tháng 8, và tàu buôn Anh Clan Macphee vào ngày 16 tháng 8, tất cả đều ở tại vùng biển phía Tây Ireland. Tuy nhiên U-30 lại gặp phải trục trặc động cơ, nên buộc phải kết thúc sớm chuyến tuần tra và quay trở về Đức ngang qua Bắc Hải, về đến cảng Kiel vào ngày 30 tháng 8. Kết thúc chuyến tuần tra, Đại úy Fritz-Julius Lemp được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Sắt Hiệp sĩ.
1941 - 1945
Sau chuyến tuần tra thứ tám, U-30 được rút khỏi hoạt động trên tuyến đầu vào ngày 15 tháng 9, 1940, và được đưa về Chi hạm đội U-boat 24 để làm nhiệm vụ huấn luyện tại khu vực biển Baltic cho đến hết chiến tranh. Nhiều thành viên trong số thủy thủ đoàn kỳ cựu của U-30, bao gồm Đại úy Lemp, được chuyển sang tàu ngầm U-110. Vào giai đoạn cuối của cuộc xung đột, theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-30 bị đánh đắm trong vịnh Kupfermühle về phía Đông Flensburg vào ngày 5 tháng 5, 1945, để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh. Xác tàu đắm sau đó được trục vớt và tháo dỡ vào năm 1948.
Các "Bầy sói" từng tham gia
U-30 từng tham gia "Bầy sói":
- Prien (15 đến 17 tháng 6, 1940)
Tóm tắt chiến công
U-30 đã đánh chìm mười sáu tàu buôn đối phương có tổng tải trọng cùng một tàu chiến phụ trợ tải trọng . Nó cũng gây hư hại cho một tàu buôn khác có tải trọng và gây hư hại cho thiết gáp hạm :
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-30_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-24_** là một tàu ngầm duyên hải được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của Hiệp ước Versailles vốn cấm
**_U-31_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_U-20_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**_U-15_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**_U-23_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**_U-34_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã can
**_U-32_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1937, nó đã thực
Ít nhất ba tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-30_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1913, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1918
**_U-13_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**_U-18_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai sau khi bãi bỏ những điều khoản của
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-43_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-37_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-39_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó chỉ kịp
**_U-47_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-41_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-44_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó chỉ thực
**_U-42_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó chỉ thực
**_U-40_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó chỉ kịp
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**U-boat Type IX** là một lớp tàu ngầm do Hải quân Đức Quốc xã thiết kế vào các năm 1935 và 1936 như những tàu ngầm vượt đại dương, dành cho những chuyến tuần tra
**Lớp tàu khu trục Tribal**, còn được gọi là **lớp _Afridi**_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,
**Lớp tàu khu trục C và D** là một nhóm 14 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Giống như những năm trước, người ta
**HMS _Edinburgh_ (16)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp Town của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. _Edinburgh_ thuộc về lớp phụ cuối cùng gồm hai chiếc, vốn còn bao gồm HMS
**HMS _Exmouth_ (H02)** là chiếc soái hạm khu trục dẫn đầu lớp tàu khu trục E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Được phân về Hạm đội
**HMS _Penelope_ (97)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Arethusa_ gồm bốn chiếc được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. ## Thiết
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**HMS _Escort_ (H66)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Được phân về Hạm đội Nhà sau khi nhập biên chế,
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**_Tama_** (tiếng Nhật: 多摩) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Kuma_ từng hoạt động cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó được
**Lớp tàu tuần dương _La Galissonnière**_ là một nhóm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Pháp trong những năm 1930. Chúng là những tàu tuần dương Pháp
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke**_ là một lớp gồm hai tàu chiến-tuần dương "toàn-súng lớn" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong những năm 1909–1911. Gồm hai chiếc SMS _Moltke_ và SMS _Goeben_,
Tàu tuần dương hạng nặng [[HMS Frobisher (D81)|HMS _Frobisher_ thuộc lớp _Hawkins_, vào khoảng thời gian mà Hiệp ước Hải quân Washington đặt ra những giới hạn cho tàu tuần dương hạng nặng.]] **Tàu tuần
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**HMS _Kempenfelt_ (I18)** là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó đã phục vụ cho
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**HMS _Hero_ (H99)** là một tàu khu trục lớp H được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào giữa những năm 1930. Trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha vào các năm 1936–1939,
**USS _Jacob Jones_ (DD-130)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh
**HMS _Comet**_ là một tàu khu trục lớp C được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Nó đã phục vụ cho Hạm đội Nhà và Hạm đội Địa
**HMS _Matabele_ (L26/F26)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó là một từ Anh hóa
**USS _Upshur_ (DD–144)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới
**HMS _Grafton_ (H89)** là một tàu khu trục lớp G được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc vào giữa những năm 1930. Nó trải qua một phần lớn thời gian tại vùng
**HMS _Tartar_ (L43/F43)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến
**USS _Aylwin_ (DD-355)** là một tàu khu trục lớp _Farragut_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**HMS _Duncan_ (D99)** là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó thoạt tiên được phân
**HMS _Electra_ (H27)** là một tàu khu trục lớp E được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó đã chứng kiến
**HMS _Brazen**_ là một tàu khu trục thuộc lớp B được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1930. Thoạt tiên được phân về Hạm đội Địa Trung Hải, nó được chuyển