Transoxiana Lịch sử (Đông-Bắc), cùng với [[ĐạiKhorasan|Khorasan (Nam) và Khwarezm (Tây-Bắc)]]
Transoxiana (cũng viết là Transoxiania) là một tên gọi cổ xưa dùng để chỉ một phần lãnh thổ tại Trung Á, ngày nay lãnh thổ này tương ứng với Uzbekistan, Tajikistan, miền nam Kyrgyzstan và tây nam Kazakhstan. Về mặt địa lý, đây là khu vực nằm giữa các sông Amu Darya ( Ōxos) và Syr Darya. Ngày nay, tên gọi này thường mang ngụ ý rằng người ta đang nói về khu vực vào khoảng thời gian từ trước đó đến khoảng thế kỷ thứ 8, mặc dù thuật ngữ vẫn còn tiếp tục được các sử gia phương Tây sử dụng trong nhiều thế kỷ sau đó. Trong sử thi Ba Tư Shahnameh, do nhà thơ Ferdowsi viết, Transoxiana là quê hương của các bộ lạc du mục Ba Tư và sông Oxus là biên giới giữa Ba Tư và Turan.
Khu vực đã từng là một phần của triều Achaemenes của Ba Tư dưới cái tên Sogdiana. Tuy nhiên Transoxiana là một từ tiếng Latinh và có nghĩa là "phía bên kia sông Oxus", tên tiếng Hy Lạp của sông Amu Darya, trong đó mô tả khu vực hoàn toàn dưới quan điểm của người Hy Lạp và La Mã. Khu vực cũng từng được gọi là prdry hay Faraa-rood trong tiếng Ba Tư trung đại, tên phía sau có nghĩa là "cái mà vượt qua sông". Sau khi người Ả Rập xâm lược, họ gọi khu vực là mā warā' an-nāhr, dịch từ tiếng Ba Tư Trung đại và có cùng ý nghĩa.
Lịch sử
Tên gọi Transoxiana trở nên phổ biến ở phương Tây do các cuộc chinh phục của Alexandros Đại đế, ông đã khuếch trương văn hóa Hy Lạp đến khu vực trong các cuộc chinh phục vào thế kỷ thứ 4 TCN; Transoxiana là điểm xa nhất về đông bắc của |văn hóa Hy Lạp, và trong thực tế là một nơi giao thoa văn hóa Hy Lạp/Ba Tư/Trung Hoa/Phật giáo, được mệnh danh là 'Serindian' cho đến khi bị người Ả Rập xâm lược. Dưới thời Đế quốc Sassanid, vùng thường được gọi là Sogdiana, một tên tỉnh từ Đế quốc Achaemenes, và được sử dụng để phân biệt nó với vùng Bactria gần đó.
Nhà thám hiểm Trung Hoa Trương Khiên (張騫), người từng viếng thăm các nước làng giềng tại Bactria và Parthia cùng với Transoxiana vào năm 126 TCN, và đây là ghi nhận đầu tiên trong sử sách Trung Quốc về khu vực này. Trương Khiên xác định rõ ràng rằng Parthia là một nền văn minh đô thị tiên tiến, canh tác ngũ cốc và nho, đúc tiền bạc và đồ da.
Trong thời kỳ Sassanid, khu vực trở thành một trung tâm văn hóa và khoa học chính yếu nhờ uy quyền của hoàng gia và sự giàu có bắt nguồn từ Con đường tơ lụa. Nhiều quý tộc và địa chủ Ba Tư đã đào thoát tới khu vực sau cuộc xâm lược của người Hồi giáo. Sau cuộc chinh phục của người Ả Rập, khu vực được gọi với cái tên Ma wara'un-Nahr (tiếng Ả Rập, "cái ở bên kia sông").
Các thành phố chính và trung tâm văn hóa của Transoxiana là Samarkand và Bukhara. Cả hai đều nằm ở phần phía nam của Transoxiana, (mặc dù vẫn nằm ở phía nắc sông Amu Darya, ven sông Zeravshan), và phần lớn khu vực bị khô hạn song lại có các đồng bằng màu mỡ. Cả hai thành phố vẫn là trung tâm văn hóa và băn minh Ba Tư sau khi người Ả Rập xâm chiếm Ba Tư, và đóng một vai trò quan trọng trong việc hồi sinh văn hóa Ba Tư với việc thành lập nhà Samanid.
Một phần của khu vực bị Qutayba ibn Muslim chinh phục từ năm 706 đến 715 và được Umayyads tổ chức quản lý lỏng lẻo từ 715 đến 738. Cuộc chinh phục được củng cố bởi Nasr ibn Sayyar giữa các năm 738 và 740, và tiếp tục nằm dưới quyền quản lý của Umayyad cho đến năm 750, khi nó bị nhà Abbas thay thế. Nhà Đường cũng từng kiểm soát phần phía đông của khu vực cho đến cùng một thời điểm, khi xảy ra một cuộc nội chiến.
Thành Cát Tư Hãn xâm lược Transoxiana vào năm 1219 trong cuộc chinh phục Khwarezm. Trước khi ông mất vào năm 1227, ông đã giao vùng đất phía tây Trung Á cho người con trai Sát Hợp Đài, và khu vực được biết đến với cái tên Sát Hợp Đài hãn quốc. Năm 1369, Timur, của bộ lạc Barlas, trở thành người cai trị trê hiệu lực mặc dù uy quyền về nghi thức của hãn quốc vẫn còn, và sau đó biến Samarkand thành kinh đô trong tương lại của đế quốc của ông. Transoxiana đã trở nên hưng thịnh vào giữa thế kỷ 14.
👁️
4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Transoxiana Lịch sử (Đông-Bắc), cùng với [[ĐạiKhorasan|Khorasan (Nam) và Khwarezm (Tây-Bắc)]] **Transoxiana** (cũng viết là **Transoxiania**) là một tên gọi cổ xưa dùng để chỉ một phần lãnh thổ tại Trung Á, ngày nay lãnh thổ này
**Hãn quốc Sát Hợp Đài** hay **Sát Hợp Đài hãn quốc** (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng
**Moghulistan** (Mughalistan, Hãn quốc Moghul) (từ tiếng Ba Tư: مغولستان, Moqulestân / Moġūlistān), còn được gọi là **Đông Sát Hợp Đài Hãn quốc** (tiếng Trung Quốc: 东 察合台 汗国; bính âm: Dōng Cháhétái Hànguó) là
**Thiếp Mộc Nhi** ( _Timūr_, tiếng Sát Hợp Đài: **', , chữ Hán: 帖木兒; 8 tháng 4 năm 1336— 18 tháng 2 năm 1405), còn được biết đến trong sử sách với tên gọi **Tamerlane_'
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Hãn quốc Y Nhi**, (, _Hülegü-yn Ulus_, , _Ilxānān_, chữ Hán: 伊兒汗國), còn dịch là **hãn quốc Y Lợi** (伊利汗国) hoặc **hãn quốc Y Nhĩ** (伊尔汗国), là một hãn quốc của người Mông Cổ thành
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**Đà Lôi** (; – 1232) là con trai út của Thành Cát Tư Hãn và Bột Nhi Thiếp. Với tư cách là một trong những võ tướng nổi bật nhất tham gia các cuộc chinh
**Danh sách dưới đây bao gồm các quân chủ** của các triều đại chính thức đã từng cai trị trên mảnh đất thuộc về Iran ngày nay. Lịch sử Iran, ban đầu, trong suốt một
**Cuộc xâm lược Khwarezmia** bắt đầu từ 1219 đến 1221 đánh dấu điểm khởi đầu của quá trình người Mông Cổ chinh phục các nhà nước Hồi giáo. Sự bành trướng của Mông Cổ cuối
**Hãn quốc Kara-Khanid** hay **Khách Lạt Hãn quốc** là một liên minh của các bộ lạc Đột Quyết được một triều đại cai trị, triều đại này trong sử sách được gọi là **Karakhanid** (cũng
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
**Nhà Sassan**, còn gọi là **Sassanian**, **Sasanid**, **Sassanid**, (tiếng Ba Tư: ساسانیان) hay **Tân Đế quốc Ba Tư**, là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của
**Shapur II** (tiếng Ba Tư trung đại: 𐭱𐭧𐭯𐭥𐭧𐭥𐭩 **Šāhpuhr**), hay **Shapur II Đại đế** (tiếng Ba Tư: شاپور دوم بزرگ), là vị vua thứ mười của Đế quốc Sassanid. Ông là vị vua trị vì
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
**Samarkand** (, ; ; ; ) là thành phố lớn thứ hai của Uzbekistan và là thủ phủ của tỉnh Samarqand, cách thủ đô Tashkent khoảng 350 km. Đây là một thành phố du lịch nổi
**_Levnesovia_** là một chi khủng long hadrosauroidea, được Sues & Averianov mô tả khoa học năm 2009, sống vào thời kỳ hình thành Bissekty cuối kỷ Phấn Trắng ở Uzbekistan, khoảng 90 triệu năm trước,
thumb|330x330px|_Đáp Nhi Ma Thất Lý là Hãn Älâ'ud-Dīn_ của [[Hãn quốc Sát Hợp Đài.]] **Đáp Nhi Ma Thất Lý**(**Tarmashirin**,Sanh mất ?-1334) là Hãn của Hãn quốc Sát Hợp Đài theo Đô Lãi Thiếp Mộc Nhân.
**Esen Buqa II** (mất năm 1462) là hãn của Moghulistan từ năm 1429 cho đến khi qua đời. Ông là con trai của Uwais Khan. ## Tiểu sử ### Ban đầu Khi Uwais Khan bị
nhỏ|Bản đồ Turkestan (màu da cam) với biên giới của các quốc gia ngày nay có màu trắng **Turkestan** (còn gọi là **Turkistan** hay **Türkistan**) là một khu vực ở Trung Á, ngày nay là
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
Bằng chứng khảo cổ học cho thấy từ thời đại đồ đá, cách đây khoảng 10 vạn - 20 vạn năm, con người đã sinh sống ở miền Nam Gobi. Trong thiên niên kỷ thứ
**Nhà Abbas** ( / ALA-LC: _al-Khilāfah al-‘Abbāsīyyah_) trong tiếng Việt còn được gọi là nước **Đại Thực** theo cách gọi của người Trung Quốc (大食) là triều đại Hồi giáo (khalifah) thứ ba của người
Trại của người Hung. **Người Hung** là một nhóm người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu
Một cuộc trình diễn được tổ chức tại Viện Thế giới Ả Rập **Viện Thế giới Ả Rập** (tiếng Pháp: _Institut du monde arabe_) là một trung tâm về văn hóa Ả Rập và Hồi
**Khosrau II**, hay **Khosrow II**, **Chosroes II** hoặc **Xosrov II** tên hiệu của ông là _Apavez_, "**Người Chiến Thắng**" - (tiếng Trung Ba Tư: 𐭧𐭥𐭮𐭫𐭥𐭣𐭩 Husrō (y); còn được gọi là _Khusraw Parvez_, tiếng Tân
**Shahrukh Mirza** (20 tháng 8, 1377 - 12 tháng 3, 1447) là hoàng đế ở phía đông của đế quốc được sáng lập ở Trung Á bởi lãnh chúa Timur (Tamerlane) - người sáng lập
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Trận Talas** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Abbasid (Đại Thực) và nhà Đường vào năm 751. Vào tháng 7 năm đó, quân đội hai bên giao chiến tại sông Đát La Tư
Bản đồ châu Á và châu Âu khoảng năm 1200 **Khuất Xuất Luật** () hay **Kuchlug** (cũng viết là _Küchlüg_, _Küçlüg_, _Güčülüg_) là một vương tử của bộ lạc Nãi Man ở miền tây Mông
**Gia Luật Trực Lỗ Cổ** (, ?-1213), là vị vua thứ năm của nước Tây Liêu trong lịch sử Trung Quốc. Gia Luật Trực Lỗ Cổ là thứ tử của vua Liêu Nhân Tông. Năm
**Gia Luật Đại Thạch** (耶律大石 Yēlǜ Dàshi) hay _Gia Luật Đạt Thực_ (耶律達實 Yēlǜ Dáshí) là người sáng lập nên vương triều Tây Liêu. Trong các tài liệu Hồi giáo, ông được biết đến với
**Nhà Timur** (), tự xưng là _Gurkānī_ (), là một triều đại Ba Tư hóa trị vì **Đế quốc Timur** gồm toàn cõi Iran, Afghanistan ngày nay, Trung Á, cũng như nhiều phần đất
**Abū 'Abd Allah Muhammad ibn Isma'il ibn Ibrahim ibn al-Mughīrah ibn al-Bardizbah Ju'fī al-Bukhari** ( بن المغيرة بن بردزبه الجعفي البخاري 20 tháng 7 năm 810-1 tháng 9 năm 870), hoặc **Bukhari** (), thường được
**Dã Tiên** (tiếng Mông Cổ: ; chữ Kirin: Эсэн тайш; chuyển tự Latin: _Esen Taishi_; chữ Hán: 也先; ? – 1455) là một khả hãn, chính khách và danh tướng của nhà Bắc Nguyên tại
thumb|Các cách hiểu phạm vi Trung Á khác nhau. Theo cách hiểu của UNESCO, phạm vi Trung Á là toàn bộ 3 vùng màu vàng nhạt, vàng xậm và vàng nâu. Theo cách hiểu này,
**Đế quốc Seljuk** hay **Đế quốc Đại Seljuk** (còn được đọc là **Seljuq**) () là một đế quốc Đột Quyết-Ba Tư theo phái Sunni của đạo Islam, khởi nguồn từ nhánh Qynyq của người Thổ
**Bistam** hoặc **Vistahm** (tiếng Ba Tư: بیستام), là một vị vua Parthia xuất thân từ gia tộc Ispahbudhan, và là người cậu của vua Sassanid, Khosrau II (trị vì từ năm 591-628). Vistahm đã giúp
**Yunus Khan** (k.1416 - 1487) (tiếng Duy Ngô Nhĩ: يونس خان), là hãn của Moghulistan từ năm 1462 cho đến khi ông qua đời vào năm 1487. Ông được nhiều nhà sử học xác định
**Caliphate** **Umayyad** (661-750; , ; ) còn gọi là **Đế quốc Hồi giáo Thứ hai** là caliphate thứ hai trong bốn caliphate chính được thành lập sau cái chết của Muhammad. Caliphate được cai trị