✨Trận Khâm Đức

Trận Khâm Đức

Trận Khâm Đức là một trận đánh trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 12 tháng 5 năm 1968 trên khu vực phía Tây tỉnh Quảng Tín (nay là khu vực thị trấn Khâm Đức, huyện Phước Sơn, Quảng Nam. Trận chiến này kết thúc với chiến thắng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, cùng sự rút lui của Quân đội Hoa Kỳ và đồng minh khỏi sân bay Khâm Đức và các cứ điểm lân cận.

Bối cảnh

Ngay từ đầu những năm 1960, được sự tư vấn của cố vấn Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định xây dựng Khâm Đức thành cứ điểm quan trọng trong việc cơ động ứng cứu cho nhau giữa các cứ điểm đóng quân ở vùng tây Quảng Nam và Hạ Lào. Đồng thời, ý tưởng đó không nằm ngoài mục tiêu ngăn chặn hành lang đi lại của Quân Giải phóng từ trên núi xuống đồng bằng.

Tại khu vực cách trụ sở UBND huyện Phước Sơn không xa, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã thiết lập một đại bản doanh của trường biệt kích toàn miền Nam do Mỹ trực tiếp huấn luyện. Đặc biệt nhất là sân bay Khâm Đức, căn cứ Ngok Ta Vak (xã Phước Mỹ) - căn cứ này nằm giữa Chavane (Lào) và thung lũng Khâm Đức, là nơi chuyển quân và hàng hóa vào Vùng 2 chiến thuật và Tây Nguyên của Mỹ và VNCH. Khâm Đức được xây dựng thành 3 phân khu chính: trên đỉnh là khu trung tâm gồm có nhà bộ chỉ huy và trận địa pháo được bao bọc bởi hệ thống hàng rào thép gai, phía đông nam là khu cư trú của lực lượng liên quân, phía tây cứ điểm là khu sân bay trực thăng dã chiến. Sân bay Khâm Đức được đầu tư xây dựng với tổng số tiền 30 triệu đồng, khởi công vào tháng 8 năm 1961 đến tháng 12 năm 1963 thì hoàn tất. Song song với việc thi công sân bay Khâm Đức, cuối năm 1962, phía VNCH tăng quân chủ lực lên 3 trung đoàn bộ binh, 5 tiểu đoàn đặc nhiệm, 18 tiểu đoàn Bảo an, 75 tổng đoàn nghĩa quân, 12 đại đội dân vệ để triển khai đóng giữ các cụm cứ điểm chiến lược quan trọng từ tây bắc Hòa Vang - Hà Tân - Thượng Đức - Hiệp Đức - Khâm Đức - An Lâu - Trà My... tạo thành tuyến phòng thủ suốt dọc theo ranh núi từ tây bắc Hòa Vang đến tây nam Tam Kỳ, nhằm chặn Việt Cộng từ căn cứ miền núi hoạt động xuống đồng bằng.

Từ sau khi Diệm bị sát hại, Mỹ và VNCH không ngừng tăng cường xây dựng, củng cố căn cứ quân sự và sân bay Khâm Đức, xem đây là một trong những cứ điểm "bất khả xâm phạm" ở miền tây Quảng Nam. Tuy nhiên, đối với Quân Giải phóng, cứ điểm Khâm Đức không thể không bị tiêu diệt, nếu họ muốn tấn công địch tại Tây Nguyên và vùng Hạ Lào. Theo ông Hồ Văn Điều, nguyên Bí thư Huyện ủy Phước Sơn thì "Trong năm 1968, ta chủ trương giải phóng Khâm Đức nhằm giành thế chủ động cho tuyến đường mòn Hồ Chí Minh qua Phước Sơn và kết nối với các căn cứ cách mạng khác từ đồng bằng lên Tây Nguyên."

Với vị trí chiến lược quan trọng, sau một thời gian trinh sát, nắm bắt quy luật hoạt động của địch, Tư lệnh Quân khu 5 đồng ý cho Sư đoàn 2 quyết định tổ chức một khu chiếm mới tại Núi Ngang, do Trung đoàn 31 nổ súng tiến công trước khi khai hỏa trận đánh Khâm Đức từ 7 - 10 ngày, với mục đích tiêu hao, tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ; thu hút, căn kéo và giam chân Sư đoàn lính thủy đánh bộ American của Mỹ, không cho chi viện lên chiến trường Khâm Đức và nếu có thì cũng không đáng kể.

Trước sức tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân vào Tết Mậu Thân 1968. Mỹ - VNCH nhận thấy nguy cơ cứ điểm Khâm Đức sẽ bị tiêu diệt. Vì vậy, giữa tháng 2.1968, liên quân Mỹ-VNCH tập trung quân, khí tài vật lực để xây dựng một cứ điểm tiền tiêu bảo vệ Khâm Đức từ xa và ngăn chặn hoạt động của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ hướng Tây Nguyên sang. Với tầm quan trọng của chiến dịch hè năm 1968, mà Khâm Đức là mắc xích quan trọng để khai thông hành lang chiến lược, mở rộng vùng giải phóng, tạo thời cơ để Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân địa phương đẩy mạnh kế hoạch X2 trên toàn chiến trường khu 5 giành thắng lợi.

Để giành thế chủ động trên chiến trường, Đảng ủy Sư đoàn mở Hội nghị quyết định tiến công Khâm Đức theo hai bước: Bước một: Trung đoàn 1, phối hợp với quân giải phóng huyện và du kích các xã vùng cao tiêu diệt gọn cứ điểm Ngok-Ta-Vak và chặn đánh quân chi viện của Mỹ từ Khâm Đức lên. Bước hai: Trung đoàn 21, phối hợp với Bộ đội đặc công của Sư đoàn và quân giải phóng huyện tổ chức đánh bóc vỏ các cứ điểm ngoại vi, khống chế hoàn toàn sân bay Khâm Đức và cắt đứt mọi chi viện của Mỹ. Trung đoàn 1, tiếp tục phát triển tiến lên tiêu diệt lần lượt từng cứ điểm khu trung tâm.

Địa hình chiến trường và bố trí binh lực các bên

Địa hình chiến trường

Khâm Đức là một thung lũng nằm ở phía Tây tỉnh Quảng Nam, trên triền Đông dãy Trường Sơn, nơi có đường 14 chạy qua, nối với Tây Nguyên và xuyên thẳng xuống các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Khâm Đức có vị trí quân sự quan trọng, nơi có thể án ngữ hành lang đi lại từ đồng bằng lên miền núi và khống chế cả Tây Nguyên, vùng Hạ Lào. Thung lũng Khâm Đức ở phía Tây Bắc huyện Phước Sơn, chiều dài căn cứ 3 km, chiều ngang 1,5 km bằng (4,5 km²) phía Bắc và Tây Bắc có các dãy núi cao từ 600 đến 800m so với mặt biển. Phía Nam có sông Nước Chè, bên kia sông có các điểm cao Trà Dê (676 mét). Ngok Tavak (738 mét), phía Đông giáp sông Nước Trẻo và Đak Mi, phía Tây là những dãy rừng bạt ngàn. Đường 14 bắt đầu từ Hoà Cầm - Hoà Vang - Quảng Đà đi qua Thượng Đức lên Khâm Đức gặp đường số 16 tạo thành ngã 3 vắt qua Tây Nguyên xuyên thẳng đến phía Đông Nam Bộ. Ngok Tavak là một cứ điểm tiền tiêu, địa hình vách núi đứng, cách Khâm Đức 7 km về hướng Tây Nam. Trên đỉnh cứ điểm Ngok Tavak là Trung tâm chỉ huy, khu thông tin và trận địa pháo, xung quanh từng khu và toàn cứ điểm có hàng rào kẽm gai dày đặt bom mìn.

Bố trí binh lực các bên

Liên quân Mỹ-VNCH

Lực lượng của liên quân Mỹ-VNCH ở Khâm Đức lúc bấy giờ có 1 Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, 7 đại đội biệt kích Long Hổ và Hắc Hổ, 1 đại đội pháo binh, bố trí thành 10 cứ điểm, khu trung tâm gồm 5 cứ điểm có tên (A- B- C-V- Z) và sân bay quân sự; khu ngoại vi gồm 5 cứ điểm (Đ-E- H- I - K) công sự rất kiên cố do đồn trú lâu ngày được củng cố xây dựng liên tục.

Giữa tháng 2/1968, liên quân Mỹ-VNCH cho 2 đại đội đổ xuống Ngok Tavak hình thành cứ điểm tiền tiêu ở phía Tây Nam cách trung tâm 7 km, đưa số quân lên 9 đại đội cả Khâm Đức và Ngok Tavak tương đương trung đoàn. Quân tuy đông, công sự tuy vững chắc, nhưng mục tiêu nằm sâu trong vùng giải phóng của QGP, nhận tiếp tế và quân tăng viện bằng đường không, khi bị tấn công, lực lượng chi viện có Sư đoàn Americal Mỹ. Là chỗ yếu của cụm cứ điểm này, nên liên quân Mỹ-VNCH thường dùng thủ đoạn tổ chức phòng ngự từ xa lùng sục cách cứ điểm từ 3–5 km), cách cụm cứ điểm (10–15 km)

Liên quân Mỹ-VNCH bố trí tại cứ điểm Ngok Tavak gồm 3 khu, có 01 đại đội biệt kích (thuộc lực lượng đặc biệt), 01 đại đội bộ binh quân chủ lực (thuộc Sư đoàn 2 ngụy), 01 trung đội pháo 105 ly với 33 quân Mỹ (thuộc Pháo đội D, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ), 8 cố vấn Mỹ và 3 cố vấn Australia trực tiếp chỉ huy. Trên đỉnh là Trung tâm chỉ huy, khu thông tin và trận địa pháo, xung quanh từng khu và toàn cứ điểm có hàng rào kẽm gai dày đặt bom mìn. Lực lượng quân liên quân Mỹ-VNCH tập trung đông nhất ở Ngok Tavak là khu vực sân bay trực thăng, gồm 01 đại đội bộ binh. Phía Bắc sân bay trực thăng có 4 lô cốt và 01 trung đội biệt kích bảo vệ, vòng ngoài có 2 lớp hàng rào kẽm gai xen kẻ với bãi mìn sát thương chống bộ binh; phía Đông Nam cứ điểm là khu căng ting (nơi giải trí) cho binh sĩ có 01 trung đội biệt kích bảo vệ; phía Tây Ngok Tavak có 01 trung đội biệt kích chốt giữ sát đường 14, chung quanh cứ điểm có hệ thống đường cơ động, hàng rào kẽm gai xen kẻ với các bãi mìn, hệ thống cảnh báo, pháo sáng. Trang bị gồm: 2 pháo 105mm, 1 cối 106,7mm, 3 cối 81mm, 3 trọng liên 12,7mm, 9 đại liên và súng bộ binh các loại. Liên quân Mỹ-VNCH xây dựng hệ thống công sự trận địa phòng ngự tương đối vững chắc, nhưng do cứ điểm Ngok Tavak nằm sâu trong vùng căn cứ của QGP nên khả năng chi viện đường bộ và hỏa lực pháo binh hạn chế, nếu bị QGP tiến công dễ bị cô lập.

Trên hướng Núi Ngang, liên quân Mỹ-VNCH có 1 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 196, Sư đoàn Americal. Chi viện cho lực lượng ở Núi Ngang có quân của Lữ đoàn 196 đóng ở Liệt Kiểm, Cấm Dơi và Lữ đoàn 198 đóng ở Tuần Dưỡng.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

Lực lượng quân sự

Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 2, Quân Giải phóng thực hiện vai trò chủ công tại Khâm Đức, Trung đoàn 1 phụ trách Ngok Tavak.

Quần chúng nhân dân

Nhân dân các xã địa phương chuẩn bị phương án hỗ trợ, tham gia cùng QGP đánh địch khi cần thiết. Nhân dân địa phương đã cùng QGP tổ chức bố phòng, đào hầm trú ẩn tránh phi pháo của địch, đồng thời tăng cường bảo vệ địa bàn và sẵn sàng đánh địch khi chiến sự xảy ra. Ủy ban Mặt trận Dân tộc giải phóng và các đoàn thể quần chúng, nhất là Huyện đội phải bám sát xã, thôn, nắm chắt tình hình đời sống nhân dân và thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không hoang mang, dao động. Chỉ sau 10 ngày phát động, cuối tháng 4 năm 1968, nhân dân các xã đã ủng hộ cho bộ đội trên 50 tấn lương thực và thực phẩm. Nhân dân các dân tộc Phước Sơn nói chung, nhân dân làng Đăk Nhẽ Mừng và Đăk Nhẽ Keo nói riêng họ bất hợp tác với VNCH, bỏ làng đi nơi khác.

Diễn biến

Tấn công Ngok Ta Vak

Từ ngày 9 tháng 5 đến 12 tháng 5 năm 1968, Sư đoàn 2 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến công tiêu diệt Chi khu quận lỵ Khâm Đức và mở đầu bằng trận đánh tiêu diệt cứ điểm tiền tiêu Ngok Ta Vak, cách Khâm Đức 7 km về phía tây nam.

Đến 15 giờ ngày 10 tháng 5, Quân Giải phóng làm chủ hoàn toàn Ngok-Ta-Vak, tiêu diệt và làm tan rã 01 đại đội biệt kích, 01 đại đội bộ binh, 01 trung đội pháo binh, tiêu diệt và làm bị thương gần 200 lính, bắn cháy 2 máy bay, tịch thu 2 khẩu pháo 105 ly, 01 khẩu pháo 106 ly và thu toàn bộ vũ khí, khí tài, quân trang, quân dụng tại cứ điểm Ngok-Ta-Vat.

Tấn công Khâm Đức

Trước tình hình nguy ngập của Khâm Đức, phía Mỹ điều Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 196 thuộc Sư đoàn American (tức Sư đoàn bộ binh 23) của Mỹ xuống Khâm Đức, tăng số quân trên chiến trường lúc này lên trên 1.000 lính, nhưng vẫn không dám tung lực lượng ra cứu Ngok Ta Vak vì sợ bị phục kích.

Đêm ngày 11 rạng sáng ngày 12 tháng 5, đặc công Sư đoàn 2, cùng Đại đội đặc công thuộc Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 21 và bộ đội địa huyện phối hợp tác chiến tiêu diệt toàn bộ các cứ điểm ngoại vi, gồm: Đồi phía Tây Nam sân bay; Đồi E; Đồi Trường bắn; Đồi hồ Mùa Thu và Đồi Nghĩa Trang (theo mật danh tác chiến gọi là D-E-H-I-K). Cũng ngay trong đêm 11 tháng 5, các đơn vị pháo tăng cường, gồm: Tiểu đoàn pháo nòng dài 85 mm, Đại đội pháo cao xạ 23 mm, cùng các hỏa lực khác của Sư đoàn 2 do bộ đội huyện dẫn đường đã chiếm lĩnh toàn bộ các cứ điểm ngoại vi D-E-H-I-K và nã pháo dữ dội vào sân bay Khâm Đức. 6 giờ sáng ngày 12 tháng 5 năm 1968, thế trận bao vây của Quân Giải phóng đã siết chặt.

Buổi sáng 12/5, một vận tải cơ C-130 thuộc Phi đoàn 21 Không vận chiến thuật do Trung tá Darel D. Cole cùng với phi hành đoàn bay lên trại, tiếp tế một kiện hàng lớn. Chiếc máy bay vừa ngừng trên phi đạo, hỏa lực Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn tới và chiếc máy bay trúng đạn nhiều chỗ, một bánh bị trúng đạn xẹp, làm chiếc phi cơ không cất cánh được, phải lết vào chỗ đậu.

1 chiếc C-130 bị phá hủy Chiếc C-130 đầu tiên đáp xuống trại để tổ chức di tản do Thiếu tá Bernard Bucher thuộc Phi đoàn 774 Không vận chiến thuật. Thiếu tá Bucher đem được lên phi cơ hơn 200 người rồi vội vã cất cánh bay lên. Chiếc C-130B bị trúng đạn từ hai khẩu đại liên 12,7mm bắn lên, lảo đảo rơi xuống một khoảng vườn, nổ tung. Chiếc C-130E do Trung tá Bill Boyd đáp xuống tiếp theo. Khi cất cánh ông ta chọn chiều ngược lại và bay thoát. Chiếc C-130 thứ ba đáp xuống, cũng thuộc Phi đoàn 21 do Trung tá John Delmore lái. Chiếc này khi đáp xuống đã trúng đạn đại liên, bay mất phần trên (mái, nóc) của buồng lái, hư hại bộ phận điều khiển động cơ máy bay. Trung tá Delmore, cố gắng lái chiếc máy bay bất kiển dụng đáp xuống phi đạo, rồi tách ra ngoài để khỏi làm trở ngại các phi cơ khác lên xuống phi đạo.

Đến 6 giờ sáng ngày 12 tháng 5 năm 1968, vòng vây của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam càng siết chặt, hỏa lực bắn phá dữ dội vào sân bay Khâm Đức, và đồng loạt tiến công tiêu diệt Chi khu quận lỵ. Để giải vây cho đội quân ở Khâm Đức, Mỹ đã cho máy bay phản lực và trực thăng vũ trang ào ạt ném bom, bắn phá dữ dội, pháo đài bay B-52 liên tục ném bom rải thảm.

Biết không còn cứu vãn được Khâm Đức, Bộ Chỉ huy tác chiến Sư đoàn American ra lệnh cho Tiểu đoàn 2 - Lữ đoàn 196 quân Mỹ và số quân còn lại ở Khâm Đức nhanh chóng lêm máy bay rút lui. Bị tấn công mãnh liệt, số quân Mỹ còn lại phải xuyên rừng tháo chạy, đến 12 giờ trưa ngày 12 tháng 5 năm 1968, cụm cứ điểm Khâm Đức bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm hoàn toàn. Số lính không lên kịp máy bay nên kẹt lại, phải phân tán ra thành nhiều toán nhỏ, lẩn tránh trong rừng chạy trốn về hướng Đông Nam sân bay, men theo đường 14 chạy về Thượng Đức. Trong số đó, một số đã bị quân Giải phóng truy kích tiêu diệt hoặc bắt sống, chỉ một số ít lính may mắn được trực thăng tìm thấy "bốc" đem về.

Cuối cùng Hoa Kỳ cũng đã di tản xong với số tổn thất hai vận tải cơ C-130, 6 phi cơ khác bao gồm trực thăng, phi cơ thám thính, tất cả chín chiếc bị bắn rơi, gồm 2 trực thăng CH-47 Chinook (AC-475, 469), 2 trực thăng CH-46, 2 vận tải cơ C-130 của Không Quân, 2 trực thăng UH-1 Lục Quân, và 1 máy bay trinh sát O-2. Nhưng trên thực tế, chỉ độ 500 trong số 1400 quân nhân, dân sự chiến đấu trong trại được các phi cơ vận tải Hoa Kỳ di tản.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố tại Khâm Đức, họ đã diệt hơn 300 quân đối phương, bắt giữ 104 lính khác trong đó có 2 cố vấn Mỹ.. Tính cả trận Ngok Ta Vak, quân Giải phóng đã tiêu diệt và làm tan rã 01 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, 2 đại đội bộ binh quân Sài Gòn và 7 đại đội biệt kích Long Hỗ và Hắc Hổ, tiêu diệt trên 500 lính, bắt sống 104 biệt kích Nùng và 2 Cố vấn Mỹ; bắn rơi 02 máy bay CH-47, 02 máy bay C-130 và 09 máy bay trực thăng chiến đấu; phá hỏng nhiều xe quân sự, tịch thu toàn bộ vũ khí, khí tài, quân trang, quân dụng.

Ý nghĩa

Chiến thắng Khâm Đức là thắng lợi lớn nhất trên chiến trường miền núi Quảng Nam lúc bấy giờ. Là trận đòn chí mạng vào quân Mỹ-VNCH, xóa sổ Trại Lực lượng Đặc biệt của Mỹ nằm sâu trong vùng giải phóng, đánh tan kế hoạch "tìm và diệt" trên chiến trường khu 5, góp phần làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ ở Việt Nam. QGP và nhân dân địa phương đã tiêu diệt tiền đồn quân sự vững chắc của Mỹ, VNCH ở phía Tây Nam Đà Nẵng. Mỹ thừa nhận: “mất Khâm Đức là mất mục tiêu thu thập tin tức tình báo hoạt động của Quân giải phóng trên đường mòn Hồ Chí Minh và cả kế hoạch xâm nhập vùng kiểm soát của đối phương (vùng hậu cứ cách mạng)”. Chiến thắng Khâm Đức – Ngok Tavak đã mở rộng vùng hậu cứ cách mạng, khai thông hành lang chiến lược Bắc - Nam và Đông-Tây, mở thông “cánh cửa thép” của đường mòn Hồ Chí Minh nối với hậu phương lớn miền Bắc với Tây Nguyên, Hạ Lào, mở ra hành lang vận động của Quân Giải phóng xuống vùng giáp ranh đồng bằng, tạo thời cơ để QGP và nhân dân địa phương đẩy mạnh chiến dịch Thu năm 1968 (Kế hoạch X2) trên toàn chiến trường khu 5 giành thắng lợi. Chiến thắng Khâm Đức - Ngok Tavak đã gây tiếng vang lớn trên trường quốc tế.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Khâm Đức** là một trận đánh trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 12 tháng 5 năm 1968 trên khu vực phía Tây tỉnh Quảng Tín (nay
**Khâm Đức** là thị trấn huyện lỵ của huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. ## Địa lý Thị trấn Khâm Đức nằm ở trung tâm huyện Phước Sơn, có vị trí địa lý:
**Vụ bắn rơi máy bay C-130 tại Khâm Đức năm 1968** là một vụ bắn hạ máy bay Lockheed C-130 Hercules của Không quân Hoa Kỳ trong trận Khâm Đức vào ngày 12 tháng 5
**Gioan Baotixita Trần Hữu Đức** (1891–1971) là một Giám mục Công giáo của Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa tiên khởi của Giáo phận Vinh từ năm 1960 đến năm 1971. Khẩu
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trần Đức Diệp** (; 1265 – 1306), thường gọi là **Trần Đức Việp**, là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Đức Diệp
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
Phòng khám Vật lý trị liệu Đức Hòa được thành lập từ năm 2014, chuyên khoa Vật lý trị liệu và phục hồi chức năng, chuyên điều trị các bệnh lý xương khớp như: đau
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
**Trần Liễu** (chữ Hán: 陳柳; 1210 - 1251), hay **An Sinh vương** (安生王) hoặc **Khâm Minh Đại vương** (欽明大王), một tông thất vương công thuộc hoàng tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trận sông Marne lần thứ hai**, còn gọi là **Cuộc Tổng tấn công Marne-Reims** hoặc là **Trận chiến Reims** (15 tháng 7 - 16 tháng 9 năm 1918) là một trận đánh lớn trong cuộc
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Vụ vượt thoát khỏi Đông Đức bằng khí cầu bay** là một sự việc xảy ra vào khoảng 2 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1979, trong đó hai gia đình, với tổng số
**Trần Thiếu Đế** (chữ Hán: 陳少帝; 1396 - 1400?) là vị hoàng đế thứ 13 và là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Lúc Thiếu Đế
**Tống Khâm Tông** (chữ Hán: 宋欽宗; 23 tháng 5, 1100 - 14 tháng 6, 1161), tên thật là **Triệu Đản** (赵亶), **Triệu Huyên** (赵烜) hay **Triệu Hoàn** (赵桓), là vị Hoàng đế thứ chín và
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Trần Vũ Đế** (chữ Hán: 陳武帝), tên thật là **Trần Bá Tiên** (陳霸先; 503 - 559) là vị vua đầu tiên, người sáng lập ra nhà Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Trận rừng Teutoburg** (tiếng Đức: _Schlacht im Wald Teutoburger_, _Hermannsschlacht_ hoặc _Varusschlacht_), còn gọi là **Trận Kalkriese**, được nhân dân Đức về sau coi là vị anh hùng dân tộc vĩ đại của mình. Thất
**Trần Văn Đế** (chữ Hán: 陳文帝; 522 – 566), tên húy là **Trần Thiến** (), tên tự **Tử Hoa** (子華), là một hoàng đế của triều đại Trần thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung
**Thời đại Khám phá** hay **Thời đại Thám hiểm** là cách gọi phổ thông về những khám phá địa lý của châu Âu vào khoảng thời kỳ cận đại, phần lớn trùng lặp với kỷ
**Trần Tiễn Thành** (chữ Hán: 陳踐誠, 1813-1883), trước có tên là **Dưỡng Độn**, sau kỵ quốc úy đổi là **Thời Mẫn**, sau nữa được vua Tự Đức ban tên là **Tiễn Thành**, hiệu là **Tốn
**Trận kinh thành Huế năm 1885** là một sự kiện chính trị, một trận tập kích của quân triều đình nhà Nguyễn do Tôn Thất Thuyết chỉ huy đánh vào lực lượng Pháp. Sự kiện
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
|nhỏ|Tranh vẽ thời Trung cổ về chú rể và cô dâu trong đêm tân hôn **Khám trinh** hay **Kiểm tra trinh tiết** là quá trình xác định xem một người phụ nữ là một trinh
**Trận thành Hà Nội 1873** hay còn gọi là **trận thành Hà Nội lần thứ nhất** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp Việt (1858-1884), diễn ra vào ngày 20 tháng 11 năm 1873.
**Trận Nam Định** (27 tháng 3 năm 1883), là một cuộc chạm trán giữa quân Pháp và quân Việt Nam, trong giai đoạn đầu của Chiến dịch Bắc Kỳ thuộc chiến tranh Pháp-Việt (1858-1884). Trong
**Trận Biên Hòa** hay **Pháp đánh chiếm Biên Hòa** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 xảy ra từ ngày 14 tháng 12 năm 1861 và kết thúc vào ngày 7 tháng Giêng
nhỏ|Cáo buộc với bức chân dung của một thượng nghị sĩ Venice (Allegory về đạo đức của những thứ trên trần gian) do [[Tintoretto vẽ năm 1585.]] **Đạo đức** là một từ Hán-Việt, được dùng
**Trần Quang Khải** (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay **Chiêu Minh Đại vương** (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Trần Thái Tổ** (chữ Hán: 陳太祖, 1184 – 17 tháng 2, 1234), tên húy **Trần Thừa** (陳承), còn có miếu hiệu là **Trần Huy Tông** (陳徽宗), là Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần.
**Trần Quần** (chữ Hán: 陳群; Phiên âm: Ch'en Ch'ün; ?-236) là công thần khai quốc nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Trần Quần có tên tự là
**Biển Đức XVI** (cách phiên âm tiếng Việt khác là _Bênêđictô XVI_ hay _Bênêđitô_, xuất phát từ Latinh: _Benedictus_; tên khai sinh là **Joseph Aloisius Ratzinger**; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**Trần Hữu Lượng** (chữ Hán: 陳友諒; 1316– 3 tháng 10 năm 1363) là một thủ lĩnh quân phiệt thời _"Nguyên mạt Minh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc, là người Miện Dương, Hồ Bắc, ông
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Giáo dục Việt Nam** dưới chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976 đến nay) là một sự tiếp nối của giáo dục thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khi
**Đại dịch COVID-19 tại Đức** là một phần của đại dịch COVID-19 toàn cầu do chủng virus corona gây hội chứng hô hấp cấp tính nặng 2 (SARS-CoV-2) gây ra. Trường hợp lây nhiễm đầu
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
Sơ đồ vị trí [[12 sứ quân]] **Trần Lãm** (chữ Hán: 陳覧; 27 tháng 9, 888 - 14 tháng 11, 967), hiệu **Minh Công** (明公), là một thủ lĩnh chiếm đóng ở vùng Bố Hải
**Đức Hòa** là một huyện nằm ở tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Đức Hòa nằm ở phía đông bắc tỉnh Long An, nằm cách thành phố
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Giuse Trần Văn Thiện** (1 tháng 10 năm 1908 – 4 tháng 2 năm 1989) là một giám mục người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông nguyên là giám mục tiên khởi
**Văn Đức Phu nhân** (chữ Hán: 文德夫人; ?-?), họ Trần, còn gọi **Anh Tông Phế phi** (英宗廢妃), là nguyên phối của vua Trần Anh Tông trong lịch sử Việt Nam. Xuất thân cao quý và