✨Trận Hải Phòng (1946–1947)

Trận Hải Phòng (1946–1947)

Trận Hải Phòng là trận đánh diễn ra từ ngày 20 tháng 11 đến 26 tháng 11 năm 1946 và từ ngày 20 tháng 12 năm 1946 đến 25 tháng 4 năm 1947 ở khu vực thành phố Hải Phòng và tỉnh Kiến An, giữa lực lượng vũ trang của chính quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương.

Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ký kết Hiệp định Trùng Khánh. Theo đó, người Pháp đánh đổi nhiều lợi ích, trong đó biến cảng Hải Phòng do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý thành cảng tự do đối với người Hoa, nhằm thuận lợi thay thế Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Đế quốc Nhật Bản ở miền Bắc Việt Nam. Đến tháng 3, quân đội Pháp từ Sài Gòn đổ bộ vào Hải Phòng và gặp sự tấn công của Quốc quân đóng tại đây. Trong tình thế đó, Chính phủ Việt Nam đã ký kết với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định Sơ bộ để trở thành một chính quyền được công nhận, đổi lại việc quân đội Pháp được phép thay thế Quốc quân trong việc giải giáp quân đội Nhật.

Từ ngày 15 tháng 3 năm 1946, Quân đội viễn chinh Pháp chính thức thay thế vai trò của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc. Tuy nhiên, đây cũng là dấu mốc bắt đầu cho những xung đột giữa người Pháp và người Việt. Tại cảng Hải Phòng, Quân đội Pháp ở Hải Phòng nhiều lần sử dụng Hiệp định Trùng Khánh để bác bỏ quyền lợi thu thuế của chính quyền Việt Nam tại thành phố, dẫn tới những vụ xung đột đổ máu.

Ngày 20 tháng 11 năm 1946, thực hiện kế hoạch được vạch sẵn từ trước, Quân đội Pháp nhận chỉ thị của Thủ tướng Pháp đã cho hạm đội nổ súng vào thành phố trong nhiều giờ, khiến khoảng 6.000 dân thường bỏ mạng, trước khi cho quân đội đổ bộ. Trận đánh kéo dài trong một tuần, từ ngày 20 đến 26 tháng 11, kết thúc với việc toàn bộ lực lượng Việt Nam phải rút khỏi nội thành thành phố Hải Phòng. Cuộc đụng độ này, còn được gọi là sự kiện Hải Phòng, hay thảm sát Hải Phòng, đã khơi mào cho những căng thẳng ở Hà Nội, dẫn đến sự kiện Toàn quốc kháng chiến ở Việt Nam.

Bối cảnh

Hải Phòng là cửa ngõ của Bắc Bộ, cũng là địa điểm có nhiều ý nghĩa cả về kinh tế lẫn chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập. Thuế thương mại ở cảng Hải Phòng là nguồn thuế khả quan đối với ngân sách eo hẹp của chính quyền Việt Nam. Theo Hiệp ước Pháp – Hoa ký kết ở Trùng Khánh (28 tháng 2, 1946), Pháp cho Trung Hoa Dân Quốc có đặc quyền với quy chế cảng tự do nhưng phía Việt Nam không thừa nhận hiệp ước này. Mặt khác, Hải Phòng là điểm chốt của tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam cũng như con đường số 5 nối Hải Phòng – Hà Nội – Lạng Sơn. Làm chủ Hải Phòng, quân Pháp để có thể đón lực lượng tăng viện từ Sài Gòn, đồng thời kiểm soát trục giao thông nối liền Hải Phòng với sân bay Gia Lâm và Hà Nội.

Ngày 1 tháng 3 năm 1946, Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông Philippe Leclerc chỉ huy hạm đội từ Sài Gòn ra Hải Phòng. Đồng thời, Leclerc chỉ đạo Jean Sainteny cố gắng đàm phán với chính phủ Việt Nam để đạt được thỏa thuận để thay thế Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc mà không vấp phải sự kháng cự, chống đối nào từ phía người Việt Nam giống như ở miền Nam Việt Nam. Điều này nằm ngoài dự kiến của các tướng lĩnh Trung Hoa Dân Quốc, khiến những người này phải ngỏ ý với chính phủ Việt Nam sớm đạt thỏa thuận với Pháp. Tối hôm đó, Hiệp định Sơ bộ được ký kết với sự thỏa thuận của hai bên Pháp – Việt. Theo đó, quân Pháp mới đủ điều kiện để vào bắc vĩ tuyến 16. Ngày 7 tháng 3, Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh đã phát biểu về tình thế ở Hải Phòng trong một cuộc mít tinh ở Nhà hát Lớn Hà Nội, khuyên người dân bình tĩnh, không mắc mưu "của bọn tay sai phản động", thực hiện tốt chủ trương "Hòa để tiến". Buổi tối cùng ngày, Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên Hội Võ Nguyên Giáp đến Hải Phòng, bàn bạc với Bí thư Thành ủy Lê Quang Đạo về các vấn đề chính trị – quân sự của thành phố, cũng như việc giao thiệp với quân đội Pháp trong những ngày tiếp theo. Đến sáng 7 tháng 3, Võ Nguyên Giáp về Hà Nội, bàn giao công việc cho Phan Mỹ.

Ngày 18 tháng 3, sau khi quân Trung Hoa Dân Quốc rút đi, Leclerc dẫn 1.200 quân từ Hải Phòng lên Hà Nội. Cũng vào ngày hôm đó, quân đội Pháp bắt đầu có những hành động vi phạm thỏa thuận đạt được trước đó như chiếm đóng các vị trí quan trọng ở Hải Phòng (và cả Hà Nội) như Sở thuế quan, Ngân hàng,... Chính phủ Việt Nam tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công để phản đối các hành động vi phạm Hiệp định Sơ bộ. Tháng 8, nhân viên thuế quan Việt Nam bắt giữ một ngoại kiều buôn thuốc lá lậu cùng một số tiền chưa được phép lưu hành. Ngày 15 tháng 8, người Pháp can thiệp, yêu cầu thả người và trả lại số hàng, cũng ra thông báo cho chính quyền Việt Nam: :Hải Phòng là một cửa biển liên bang, chỉ người Pháp mới có quyền kiểm soát thuế quan. Quân đội Pháp sẽ không để yên những vụ tịch thu, khám xét người nước ngoài. Nếu những việc trên cứ tiếp tục xảy ra thì quân đội Pháp sẽ can thiệp bằng quân sự. Phía Việt Nam không chấp nhận và cho rằng đó là những đòi hỏi vô lý. Mấy ngày sau, tàu Hải Âu của Sở thuế quan Hải Phòng bị quân Pháp bắt giữ. Ngày 29 tháng 9, chỉ huy quân đội Pháp ở Hải Phòng là Đại tá Pierre Debès cho xe tăng, xe bọc thép yểm hộ bao vây Nha thương chính và trạm công an ở bến cảng, cho quân chiếm đóng hai địa điểm, bắt giữ cảnh binh và thu giữ hàng hóa. Phía Việt Nam điều bộ đội tới, nổ súng xảy ra. Đến khi Ty liên kiểm Việt – Pháp Hải Phòng đến dàn xếp, hai bên mới ngừng bắn và phía Pháp đồng ý thả lại những người bị bắt, rút khỏi hai địa điểm. Nhiều cuộc biểu tình phản đối nổ ra.

Tháng 9 năm 1946, Cao ủy Thierry d'Argenlieu ra lệnh cho Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Bắc Kỳ là Louis Morlière phái thiết lập quyền kiểm soát thuế quan ở Hải Phòng kể từ ngày 15 tháng 10. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức một trận bóng đá giao hữu giữa tuyển Hải Phòng với các thủy thủ Pháp trên chiến hạm Dumont d'Urville. Trận đấu diễn ra vào ngày 21 tháng 10, kết thúc với tỉ số hòa 1–1. Những lo ngại về an ninh đã không xảy ra.

Tương quan lực lượng

Sau sự kiện kiểm soát Sở thuế quan, chính quyền Việt Nam nhận ra rằng rất khó khăn để kéo dài tình thế hòa hoãn nhằm tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng. Ngày 15 tháng 10 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chia toàn quốc thành 9 chiến khu quân sự, sau đó chia lại thành tổng cộng 12 chiến khu. Trong đó, Hải Phòng thuộc Khu 3 do Hoàng Minh Thảo làm chỉ huy, Lê Quang Hòa làm chính trị ủy viên. Về tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương, thì Xứ ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ Hoàng Tùng phụ trách Hải Phòng, Nguyễn Văn Kha làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng thay Lê Trung Toản, Lê Quốc Thân làm Bí thư Tỉnh ủy Kiến An thay Mai Côn. Vũ Quốc Uy sau đó thay Đinh Thịnh làm Chủ tịch. Ngày 26 tháng 11, tổ chức hành chính Hải Phòng và Kiến An sáp nhập, Đinh Thịnh làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến liên tỉnh Hải – Kiến. Ban Chỉ huy liên tỉnh được thành lập với Đinh Thịnh làm Chỉ huy trưởng, Dương Hữu Miên và Trần Thành Ngọ làm Chỉ huy phó. Khi Đinh Thịnh về Hải – Hưng phụ trách Trung đoàn 44, Dương Hữu Miên thay Đinh Thịnh làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến liên tỉnh Hải – Kiến, kiêm Chỉ huy trưởng mặt trận Hải Phòng – Kiến An.

Lực lượng vũ trang của Việt Nam ở Hải Phòng gồm đơn vị chủ lực Trung đoàn 41 Vệ quốc đoàn do Trung đoàn trưởng Đinh Thịnh, Trung đoàn phó Dương Hữu Miên, Chính trị viên Nguyễn Nam chỉ huy. Trung đoàn 41 có biên chế thành hai Tiểu đoàn 89 do Long Vân làm Tiểu đoàn trưởng (thay Đỗ Trọng Dậu), Nguyễn Như Thiết (thay Doãn A) làm Chính trị viên; và Tiểu đoàn 90 do Nguyễn Văn Bút làm Tiểu đoàn trưởng, Trần Huy (thay Ất) làm Chính trị viên. Đại đội Ký Con sau tổn thất lớn ở trận Cô Tô, do Bùi Sinh làm Đại đội trưởng (thay Lê Phú bị Pháp bắt), Nguyễn An làm Chính trị viên, cũng được Khu 3 gửi từ Hòn Gai đến bổ sung cho Tiểu đoàn 89. Tương tự, Đại đội thủy quân Bạch Đằng của Bộ Quốc phòng (lúc này đã thiệt hại nặng) cũng được giao cho Tiểu đoàn 89. Sau khi Đinh Thịnh được điều đi, Trung đoàn 41 do Dương Hữu Miên làm Trung đoàn trưởng, Trần Thành Ngọ làm Trung đoàn phó, Hoàng Thế Dũng làm Chính trị viên. Lực lượng tại Hải Phòng gồm 1 đại đội cảnh vệ, 1 đại đội Công an xung phong (Cảnh sát trưởng Trần Thành Ngọ chỉ huy), 1 trung đội thủy quân, 1 đại đội công nhân quân, 1 đại đội tự vệ chiến đấu (Chỉ huy trưởng Hoàng Lùng, Chính trị viên Lê Vân, Chỉ huy phó Nguyễn Bá Lượng chỉ huy). Huyện Thủy Nguyên (tỉnh Quảng Yên) cũng là nơi đóng quân của Tiểu đoàn 182 (Tiểu đoàn trưởng Vũ Mạnh Hùng) thuộc Trung đoàn 44, cùng Tiểu đoàn Quang Trung (Tiểu đoàn trưởng Bùi Tống Thủy) của tỉnh Quảng Yên, hỗ trợ cho chiến trường Hải Phòng khi cần thiết. Đến khi quân Pháp đánh Thủy Nguyên, Tiểu đoàn Quang Trung bị giải thể, chỉ giữ lại lực lượng một đại đội (Đại đội Lê Lợi) do Lê Vân, sau do Chu Bằng Thanh làm Đại đội trưởng.

Sau Hiệp định Sơ bộ, lực lượng quân viễn chinh Pháp bố trí ở Hải Phòng một lực lượng mạnh gồm cả bộ binh, không quân và hải quân, tổng cộng 3.000 quân. Lực lượng bộ binh gồm Trung đoàn Lê dương số 4 (4eRE) với lực lượng chủ yếu là pháo binh người Maroc cùng một Trung đoàn chiến xa cơ động. Lực lượng hải quân Pháp không rõ số lượng, chỉ biết có tuần dương hạm Émile Bertin, Suffren; thông báo hạm Chevreuil, Savorgnan de Brazza, Dumont d'Urville.

Diễn biến

Chiến sự bùng nổ

Tháng 10 năm 1946, để chuẩn bị cho các tình huống có thể xảy ra, Jean Valluy yêu cầu quân đội Pháp phải làm chủ Hải Phòng để có thể đón lực lượng tăng viện từ Sài Gòn, đồng thời kiểm soát trục giao thông nối liền Hải Phòng với sân bay Gia Lâm và Hà Nội. Nếu cần thiết, quân đội Pháp sẽ rút khỏi các nơi bị cô lập khó bảo vệ như Lạng Sơn, Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh và Vinh. Đồng thời, với quân số được chi viên, Valluy có thể tính đến việc tóm gọn toàn bộ Chính phủ Hồ Chí Minh.

Đầu tháng 11, trong khi tướng Georges Nyo đang thương thảo với Chính phủ Việt Nam về những điều khoản trong Tạm ước 14 tháng 9, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Ngày 18 tháng 11, theo nhà văn Bút Ngữ, Pháp có gửi tối hậu thư cho Ủy ban kháng chiến hành chính Hải Phòng, yêu cầu lực lượng vũ trang Việt Nam hạ vũ khí. Ngày 19 tháng 11, Pháp thu giữ 2 ca nô và 1 phà của người Việt, nổ súng bắn 1 công an, 1 binh sĩ và 1 dân thường Việt Nam.

Ngày 20 tháng 11, Valluy chỉ thị cho Morlière phải kiểm soát thuế quan ở Hải Phòng. 9h sáng, quân Pháp cho xả súng vào dân thường ở bến Tam Kỳ. 11h trưa, quân Pháp đổ bộ và tấn công nhiều vị trí quan trọng trong thành phố gồm Nhà hát Lớn, nhà ga, sở bưu điện, nhà máy đèn, nhà máy nước, Ủy ban hành chính Thành phố,... Nguồn khác lại cho rằng quân Pháp dùng vũ lực để ngăn cản, không cho công an và nhân viên thuế quan Việt Nam kiểm soát bắt giữ các thuyền buôn Hoa kiều. Đến 11h, quân đội Pháp mở cuộc tấn công nhà ga và nhiều khu vực khác, hầu như toàn thành phố đều có tiếng súng. Đặng Kim Nở đã chỉ huy đơn vị cùng các nghệ sĩ chống trả quyết liệt, gây cho quân Pháp 50 thương vong và 2 xe thiết giáp bị phá hủy. Để trả đũa, quân Pháp chặt đầu người chỉ huy dàn nhạc là Nguyễn Văn Đạo. Tổng cộng 13 binh sĩ Việt Nam tử vong, 8 binh sĩ gồm Đặng Kim Nở bị bắt vì bị thương nặng. 5 nghệ sĩ còn sống bị bắt giữ và được trao trả vào ngày 21. 20h tối, lực lượng Việt Nam ở Hải Phòng thông báo đã ngừng bắn, nhưng quân đội Pháp vẫn nổ súng. Ngày 21 tháng 11, phái đoàn liên kiểm đến Hải Phòng, hai bên đã thỏa thuận "giải quyết ôn hoà sự kiện Hải Phòng tại Hà Nội". 9h, trưởng phái đoàn quân sự Việt Nam ở Hà Nội gặp mặt chất vấn Morlière về tối hậu thư, nhưng Morlière cho biết bức thư đó "đã được cấp trên ở Sài Gòn chuẩn y" và ông ta bất lực trong việc ngăn chặn xung đột, đồng thời khuyên phía Việt Nam nên chấp thuận. Đến 10h, khi không thấy phản hồi, Dèbes lệnh cho tuần dương hạm Émile Bertin cùng một số tàu khác bắn phá thành phố. Lệnh nã pháo được Thủ tướng Pháp Georges Bidault phát đi thông qua trung gian D'Argenlieu, khiến nhiều dân thường thiệt mạng. Sau đó, khoảng 2.000 lính Pháp, có sự yểm trợ của xe tăng, tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Lực lượng Việt Nam ở trong Nhà hát Lớn tiếp tục tận dụng kiến trúc cầu thang, ban công, cửa sổ để tiêu hao quân Pháp. :"Tôi kêu gọi tướng Valluy, Tổng chỉ huy quân đội Pháp kiêm chức Cao ủy và các tướng lĩnh Pháp ở Việt Nam phải lập tức đình chỉ việc đổ máu giữa người Pháp và người Việt.
Tôi kêu gọi toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều.
Chính phủ luôn đứng sát với toàn thể đồng bào để giữ gìn đất nước.
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!"

Tại Pháp, Cao ủy D'Argenlieu lại lợi dụng báo chí tố cáo người Việt Nam "dùng sức mạnh để đẩy người Pháp đi", hô hào dùng chính sách cứng rắn,... Ngày 23 tháng 11, D'Argenlieu báo cáo trước Hội đồng liên bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ Pháp do cựu Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne đứng đầu. Hội đồng sau đó cho phép lực lượng viễn chinh Pháp được phép sử dụng vũ lực "để đối phó với sự vi phạm các thỏa hiệp". D'Argenlieu lập tức liên lạc với Valluy về việc đường lối chính trị cứng rắn ở Đông Dương "đã được Chính phủ Pháp và tất cả các đảng phái tán thành". Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 (Trung đoàn 41) Long Vân do tự ý bỏ đơn vị nên bị kỷ luật khai trừ khỏi quân đội.

Cùng ngày, tổ chức hành chính Hải Phòng và Kiến An sáp nhập thành Ủy ban Kháng chiến liên tỉnh Hải – Kiến Mặt trận liên tỉnh Hải – Kiến được thành lập do Đinh Thịnh làm chỉ huy trưởng.

Mặt trận B gồm khu Cầu Rào, đường số 14, Đồ Sơn, do Vũ Hạnh, Đặng Kinh, Ngô Hùng, Trần An tham gia ban chỉ huy,

Ngày 28 tháng 11, lực lượng Việt Nam rút hoàn toàn ra khỏi nội thành thành phố, phòng tuyến Cầu Niệm, Cầu Rào, An Dương được hình thành. Cùng ngày, một Đại đội Pháp thử đánh ra ngoại thành, trúng trận địa phục kích của một Đại đội Vệ quốc đoàn do Đặng Kinh chỉ huy. Quân Việt Nam thu được 12 súng trường, một trung liên và một tiểu liên. Các cuộc tiến công tiếp tục diễn ra trong những ngày sau đó. 8h ngày 10 tháng 2, quân Pháp tổ chức một Tiểu đoàn, có sự yểm trợ của pháo tấn công trên toàn tuyến phong thủ Cam Lộ. Đến 10h, chiến sự kết thúc, quân Pháp buộc phải rút lui với thiệt hại 126 binh lính, còn phía Việt Nam có 3 người chết, 5 người bị thương. Từ sau trận Cam Lộ, chiến sự lâm vào thế giằng co. Ngày 15 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Jean Sainteny một thông điệp đến Blum, nhắc lại lập trường cơ bản của Chính phủ Việt Nam, đồng thời đề ra các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Tuy nhiên Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh cố tình làm thông điệp mất 11 ngày mới được chuyển tới Paris, đồng thời tăng cường các hoạt động gây hấn. Những tướng lĩnh Pháp ở Đông Dương như D'Argenlieu và Valluy không hy vọng vấn đề Đông Dương được giải quyết trong hòa bình, và nỗ lực thúc đẩy chiến tranh bùng nổ như "việc đã rồi". Theo báo Nhân Dân: "Họ đã thành công trong việc lái chính sách của Chính phủ Pháp từ đàm phán sang sử dụng sức mạnh quân sự bằng cách đổ lỗi cho phía Việt Nam gây ra chiến tranh."

Tháng 12 năm 1946, sau khi chiếm được Lạng Sơn, Hải Phòng và Đà Nẵng, quân đội Pháp bắt đầu phát động cuộc chiến nhằm tiêu diệt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chiếm đóng Việt Nam. Sau ba tối hậu thư liên tiếp từ Louis Morlière yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải giải giáp toàn bộ lực lượng quân sự để quân Pháp hoàn toàn kiểm soát, Chủ tịch Hồ Chí Minh thống nhất cùng Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội về việc phát động chiến tranh. 20h3' 19 tháng 12 năm 1946, Đài Tiếng nói Việt Nam phát Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Toàn quốc kháng chiến bắt đầu.

Toàn quốc kháng chiến

Khi cuộc chiến tranh bùng nổ, quân đội Pháp ở Hải Phòng mở nhiều cuộc tiến công nhằm phá vỡ vòng kiềm tỏa để chi viện cho lực lượng ở Hà Nội. Sau 25 ngày từ tháng 12 năm 1946 đến tháng 1 năm 1947, quân Pháp đã thành công giải tỏa đường số 5, bắt đầu đổ quân về Hà Nội. đứng đầu tổ chức cho người dân sơ tán ("vườn không nhà trống") để không cho quân Pháp bắt phu sửa đường. Cùng ngày, ở thôn Thủy Đường, một tiểu đội tự vệ chỉ được trang bị vũ khí thô sơ của Việt Nam đã chống lại quân Pháp đến người cuối cùng. Ngày 27 tháng 2, một trung đội thuộc Đại đội Lê Lợi do Phạm Hữu Tề chỉ huy tổ chức tập kích quân Pháp ở đình Kiền Bái. Nguyễn Văn Thuyết cho bộ đội bắn vào đồn Trịnh Xá để ngăn quân đồn này chi viện. Ngày 27 tháng 2, Đại đội Lê Lợi lại tổ chức tấn công vào thôn Trại Kênh, gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp. Để trả đũa, quân Pháp tiến hành khủng bố, bắn giết dân thường. Hơn 60 dân thường ở Mỹ Giang, Trại Kênh cùng hơn 50 người ở Kiền Bái, Trịnh Xá bị quân Pháp bắn giết. Các hành vi mổ bụng, chặt đầu, hãm hiếp, đốt phá được ghi lại.

Đêm ngày 23 tháng 3, quân Pháp ở Hải Phòng huy động 7 tiểu đoàn càn quét Đông Triều, Chí Linh, đường 18. Bộ Chỉ huy Chiến khu 3, Ủy ban Kháng chiến Hành chính liên tỉnh Hải – Kiến quyết định huy động Trung đoàn 41, lực lượng vũ trang các mặt trận A, B, C cùng cơ sở nội thành tổ chức một cuộc tập kích lớn vào nội thành Hải Phòng. Các đơn vị đồng loạt tiến công vào các vị trí Sở Dầu, Sở Đoan, nhà máy Xi măng, xưởng Tapi (thảm len), sân bay Cát Bi,... Trước uy hiếp của quân đội Việt Nam, chỉ huy quân Pháp phải cấp tốc điều toàn bộ 7 tiểu đoàn về bảo vệ thành phố. Dù chống cự quyết liệt, nhưng các phòng tuyến của quân đội Việt Nam đều bị vượt qua. Đại đội trưởng Đặng Bá Lộc bảo vệ Sở Chỉ huy ở núi Khu. Lê Quốc Uy cùng Đại đội trưởng Bùi Đức Quyên tổ chức phòng ngự ở núi Thiên Văn. Lực lượng Việt Nam tổn thất vô cùng nặng nề, Trần Thành Ngọ bị thương nặng, dùng thủ pháo tấn công cảm tử, còn Lê Quốc Uy tử trận trên đường rút lui. Ở Đồ Sơn, đối mặt với lực lượng 7 tàu chiến bắn phá, đổ bộ, lực lượng vũ trang Việt Nam tổ chức chặn đánh các mũi tiến công. Sau khi phân tán lương thực, vật tư, tài sản và di chuyển người dân đến nơi an toàn, quân đội Việt Nam chủ động rút lui. Quân Pháp chiếm được đảo với thiệt hại hơn 30 binh sĩ.

Hệ quả

Từ tháng 11 năm 1947, quân đội Pháp thành lập Tiểu khu Hải Phòng gồm địa bàn thành phố Hải Phòng, tỉnh Kiến An (gồm bán đảo Đồ Sơn) thuộc khu duyên hải. Tiểu khu Hải Phòng trở thành trung tâm quân sự lớn ở miền Bắc Đông Dương với nhiều đồn bốt, trại lính, đường xá phục vụ quân sự được xây dựng. Khu vực Hải Phòng – Kiến An hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của quân viễn chinh Pháp.

Ngày 13 tháng 5 năm 1955, sau Hiệp định Genève, quân đội Pháp rút khỏi Hải Phòng. Cụm từ "Đi trước về sau" cũng được áp dụng với Hải Phòng, khi đây là địa phương đầu tiên của miền Bắc nổ ra chiến sự, cũng là địa phương cuối cùng của miền Bắc được giải phóng, tiếp quản từ quân đội Pháp.

Nhận định

Nhìn nhận sự kiện Hải Phòng, Võ Nguyên Giáp, lúc này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy quân đội toàn quốc của Chính quyền Việt Nam, đã nhận định: "Trận Hải Phòng là mở đầu cho một quy mô mới của cuộc chiến tranh cướp nước. Kẻ thù đã mở rộng chiến tranh xâm lược trên nửa phần phía nam của nước ta ra toàn cõi Việt Nam, đồng thời ra toàn bán đảo Đông Dương."

Cuộc chiến 7 ngày đêm ở Hải Phòng (từ 20 đến 26 tháng 11) là một cuộc chiến không cân sức giữ lực lượng vũ trang Việt Nam mới thành lập với hàng nghìn quân tinh nhuệ của Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại cùng sự hỗ trợ của hải quân và không quân. Nhưng lực lượng vũ trang cùng người dân Hải Phòng đã thành công trong việc cản bước quân Pháp, khiến đối phương phải bất ngờ. Từ bài học của Hải Phòng, Bộ Tổng Chỉ huy của quân đội Việt Nam đã chỉ đạo Ban chỉ huy Mặt trận Hà Nội nghiên cứu, xây dựng thế trận chiến đấu trong thành phố. Võ Nguyên Giáp đánh giá: "Kinh nghiệm Hải Phòng chỉ cho ta thấy rất có thể kháng chiến trong thành phố", "Trận chiến đấu anh dũng tại Hải Phòng đã có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị cho trận đánh kéo dài nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng."

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Hải Phòng** là trận đánh diễn ra từ ngày 20 tháng 11 đến 26 tháng 11 năm 1946 và từ ngày 20 tháng 12 năm 1946 đến 25 tháng 4 năm 1947 ở khu
Hoa phượng đỏ, biểu tượng của người Hải Phòng Dưới đây là **danh sách những nhân vật tiêu biểu** là những người đã sinh ra tại Hải Phòng, có quê quán (nguyên quán) ở Hải
**Hải Phòng** là một trong sáu thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam về quy mô kinh tế, đồng thời là một thành phố
**Trận Hà Nội đông xuân 1946-47** là sự kiện khởi động Chiến tranh Đông Dương giữa các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Việt Minh) và tập đoàn quân viễn chinh Pháp từ
**Trần Thành Ngọ** (1918 - 1947) là một quân nhân trong Quân đội Nhân Dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. ## Sự nghiệp Ông là người làng Đẩu Vũ, Văn Đẩu,
**Chiến tranh Lạnh (1947–1953)** là một giai đoạn của cuộc Chiến tranh Lạnh từ học thuyết Truman năm 1947 tới cuộc Chiến tranh Triều Tiên năm 1953. Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay sau Thế
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trần Tử Bình** (1907-1967) là một trong những vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà . Ông là người lãnh đạo phong trào công nhân cao su Phú Riềng 1930;
**Chiến dịch Trần Hưng Đạo** hay **Chiến dịch Trung du** là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào phòng tuyến trung du Bắc Bộ của quân Liên
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thượng Hải** (Tiếng Trung Quốc: **上海市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Shàng Hǎi shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Thượng Hải thị Nhân dân Chính
**Trần Văn Đại** (1912–2000), thường gọi là **Tám Đại**, là một nhà cách mạng và chính trị gia Việt Nam. ## Thân thế Trần Văn Đại sinh năm 1912 ở làng Phong Lạc, tổng Quản
**Trần Đăng Ninh** (1910 – 1955) là nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung
**Hoàng Văn Thái** (1915 – 1986), tên khai sinh là **Hoàng Văn Xiêm** là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những tướng lĩnh có ảnh hưởng quan trọng trong
**Trường Đại học Trần Quốc Tuấn** (tiếng Anh: Tran Quoc Tuan University - First Army Academy) hay **Trường Sĩ quan Lục quân 1** là trường đào tạo sĩ quan chỉ huy lục quân sơ cấp
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Lịch sử Bộ Quốc phòng Việt Nam** tính từ ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Thế Lữ** (10 tháng 6 năm 19073 tháng 6 năm 1989), tên khai sinh là **Nguyễn Đình Lễ** (sau đó đổi thành **Nguyễn Thứ Lễ**), là một nhà thơ, nhà văn kiêm nhà soạn kịch
**Hoàng Thế Thiện** (1922 – 1995) là một danh tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam (thụ phong trước năm 1975), một Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Ông từng
Không ảnh Trạm Hải quân Vịnh Subic (phải) và Trạm Không quân của Hải quân, Mũi Cubi (trái) phải|Không ảnh Mũi Cubi và Trạm Hải quân Vịnh Subic ở hậu cảnh **Căn cứ Hải Quân
**Văn Cao** (tên khai sinh là **Nguyễn Văn Cao**, 15 tháng 11 năm 1923 – 10 tháng 7 năm 1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ, chiến sĩ biệt động ái quốc người
**Trần Đại Nghĩa** (13 tháng 9 năm 1913 – 9 tháng 8 năm 1997) là một Giáo sư, Viện sĩ, kỹ sư quân sự, nhà bác học, Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Trần Đức Thảo** (26 tháng 9 năm 1917 – 24 tháng 4 năm 1993) là một triết gia người Việt. Các công trình của ông là những nỗ lực hợp nhất hiện tượng học và
**Vũ Quốc Uy** (1920 - 1994) là nhà hoạt động cách mạng trong lĩnh vực văn hóa, cán bộ Việt Minh, đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành
**Đoàn Thanh niên Tuyên truyền Xung phong thành Hoàng Diệu** là một lực lượng võ trang tuyên truyền tự phát tồn tại từ 1945 đến 1947 ở nội thành Hà Nội, sau thuộc quyền chỉ
**Vũ Khiêu**, tên thật là **Đặng Vũ Khiêu** (19 tháng 9 năm 1916 – 30 tháng 9 năm 2021), là một học giả nghiên cứu về văn hóa Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của
**Trần Quý Hai** (1913-1985) là một tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam,
**Trần Duy Hưng** (16 tháng 1 năm 1912 – 2 tháng 10 năm 1988) là một bác sĩ, Thị trưởng Hà Nội (1945–1946), Chủ tịch Ủy ban Hành chính đầu tiên của Hà Nội (1954–1977),
**Trần Thiện Khiêm** (1925-2021) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân
**Trận Vinh** là trận đánh diễn ra từ ngày 19 tháng 12 đến 20 tháng 12 năm 1946 tại thị xã Vinh, tỉnh Nghệ An, là một trong các trận đánh diễn ra ở các
**Lê Quang Đạo** (tên khai sinh là **Nguyễn Đức Nguyện**, 8 tháng 8 năm 1921 – 24 tháng 7 năm 1999), là một chính khách của Việt Nam, ông giữ chức Chủ tịch Quốc hội
**Hoàng Công Khanh** (1922 – 5 tháng 5 năm 2010), tên thật là Đoàn Xuân Kiều – một nhà văn, nhà viết kịch Việt Nam. Ông quê ở Kiến An, Hải Phòng. Hoàng Công Khanh
**Trần Văn Trạch** (tên thật: **Trần Quang Trạch**, 1924 - 1994) là một nhạc sĩ và ca sĩ nổi danh từ trước năm 1975 tại Việt Nam Cộng hòa. Với mái tóc dài cùng giọng
**Phạm Hưng** (1927–2018), tên thật: **Bùi Văn Tường**, là một luật sư và thẩm phán người Việt Nam. Ông từng là Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam từ tháng 7 năm
**Trần Linh** (sinh năm 1929 - mất năm 2022) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Phó Tư lệnh phụ trách về Chính
nhỏ|Hoàng Ngân (1921-1949) **Hoàng Ngân** (tên thật **Phạm Thị Vân**, 1921 – 17 tháng 7 năm 1949), là Bí thư đầu tiên của Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc Việt Nam (nay là Hội
**Trần Kiên** (1 tháng 1, 1910 – 22 tháng 3, 2000), tên khai sinh **Đặng Văn Minh**, là nhà hoạt động cách mạng và chính trị gia người Việt Nam. Ông tham gia cách mạng
**Đô đốc Hải quân Đế quốc Nhật Bản** là các quân hàm cấp tướng trong Hải quân Đế quốc Nhật Bản từ năm 1872 đến năm 1945. Trên thực tế, các cấp bậc đô đốc
**Trần Hữu Trang** hay **Tư Trang** (22 tháng 2 năm 1906 - 1 tháng 10 năm 1966) là soạn giả lớn của nghệ thuật cải lương. Ông đã ghi dấu ấn trên sân khấu cải
**Hoàng Tùng** (1920–2010) là nhà báo người Việt Nam; nguyên Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khóa V; Tổng Biên tập Báo Nhân dân; Giám đốc Nhà xuất bản Sự thật của Đảng Cộng
**Nguyễn Duy Thái** (1914-1995), là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Tổng Giám đốc các xưởng Quân giới, Cục phó rồi Cục trưởng Cục Quân
**Bùi Quang Tạo** tức: **Bùi Nhật** (1913 - 1995); quê quán huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình**,** là nhà hoạt động cách mạng, chính khách Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành
**Trần Quyết** (1922–2010) là một cựu chính khách Việt Nam. Ông từng là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VIII (1987–1992); nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
**Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng** (**TCCNQP**), cũng được biết đến dưới tên thương mại tiếng Anh là **Vietnam Defence Industry** (**VDI**; ), là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập
**Trần Hanh** (29 tháng 11 năm 1932 – 5 tháng 12 năm 2024) là một tướng lĩnh Không quân Nhân dân Việt Nam cấp bậc Trung tướng. Ông là một trong những phi công đầu
**Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ** hay **Trung tâm phòng chống dịch bệnh Hoa Kỳ** (tiếng Anh: Centers for Disease Control and Prevention, viết tắt là **CDC**) là một cơ
**Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm** (1902–1976) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn kiêm
**Nguyễn Hải Bằng** (1932–2019) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, từng giữ các chức vụː Tư lệnh Quân đoàn 29 thuộc Quân khu 2, Phó
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và