✨Trần Thiện Khiêm

Trần Thiện Khiêm

Trần Thiện Khiêm (1925-2021) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân Viễn Đông do Quân đội Thuộc địa Pháp mở ra tại Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Mặc dù chuyên môn quân sự của ông là Bộ binh, nhưng khi còn là sĩ quan trung cấp, ông ít phải chỉ huy đơn vị tác chiến mà được cử giữ những chức vụ liên quan đến lãnh vực Tham mưu. Sau lên đến sĩ quan cao cấp, ông được cử chỉ huy đơn vị cấp Sư đoàn một thời gian ngắn. Ông từng là tướng lĩnh giữ vai trò quan trọng trong các cuộc Đảo chính Quân sự tại Việt Nam Cộng hòa trong những năm 1963-1964. Sau đó ông được đảm trách những chức vụ cao trong Quân đội như: Tư lệnh Quân đoàn, Tham mưu trưởng rồi Tổng Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu. Là một trong số ít sĩ quan được thăng cấp tướng ở thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa (Thiếu tướng năm 1962) và là một trong 5 sĩ quan được phong cấp Đại tướng trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông còn là một chính khách và là người giữ chức vụ đứng đầu Quốc phòng và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa Việt Nam Cộng hòa trong thời gian lâu nhất. Ông là tướng lĩnh cao cấp nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa có tuổi thọ cao thứ ba sau Đề đốc Trần Văn Chơn (1920-2019) và Trung tướng Phạm Xuân Chiểu (1920-2018).

Tiểu sử và Binh nghiệp

Ông sinh ngày 15 tháng 12 năm 1925 tại Châu Thành, Long An, Nam Kỳ, trong một nhà đại điền chủ di cư từ Hải Dương đầu thế kỷ XX. Do điều kiện gia đình khá giả, nên ông có một trình độ học vấn căn bản. Ông được cho lên Sài Gòn học từ cấp Tiểu học đến cấp Trung học ở những trường Pháp danh tiếng. Năm 1944, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).

Năm 1945, Cách mạng tháng 8 diễn ra ở miền Nam, ông tham gia phong trào Việt Minh. Khi Pháp tái chiếm Nam Kỳ, ông cùng các bạn hữu rút vào Chiến khu 8, chiến đấu dưới quyền Khu trưởng Trần Văn Trà một thời gian ngắn, sau đó lại trở về thành.

Quân đội Thuộc địa và Liên hiệp Pháp

Giữa năm 1946, ông tình nguyên nhập ngũ vào Quân đội Thuộc địa Pháp. Do có trình độ Tú tài, ông được cho theo học khóa 1 Nguyễn Văn Thinh tại trường Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1946. Thời gian theo học tại đây, ông có quan hệ thân tình với một số học viên trẻ khác như Nguyễn Khánh, Lâm Văn Phát và Trần Đình Lan. Ngày 1 tháng 7 năm 1947, ông mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy. Ra trường ông là sĩ quan tập sự trong đơn vị Vệ binh Nam phần của Quân đội Thuộc địa Pháp. Giữa năm 1948, ông được chuyến biên chế sang Quân đội Liên hiệp Pháp. Tháng 8 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu úy giữ chức vụ Chỉ huy phó Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 3 Việt Nam.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối năm 1950, ông chuyển ngạch sang Quân đội Quốc gia và được thăng cấp Trung úy chỉ huy một Đại đội Việt Nam đồn trú tại Mông Thọ, Rạch Giá. Giữa năm 1952, sau khi Quân đội Quốc gia thành lập Bộ Tổng Tham mưu vào (1/5/1952), ông được thăng cấp Đại úy, chuyển đến phân khu Hải Dương làm Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 đồn trú tại Ninh Giang, Hải Dương. Tại đây ông kết thân với 2 sĩ quan người Việt là Trung úy Nguyễn Văn Thiệu và Trung úy Cao Văn Viên. Bộ 3 này về sau là những người có thế lực nhất trong nền Đệ nhị Cộng hòa.

Tháng 8 năm 1953, bàn giao chức vụ Trưởng ban 3 của Liên đoàn Lưu động số 2 lại cho Đại úy Vương Văn Đông. Ngay sau đó, ông được cử làm chỉ huy phó Liên đoàn Lưu động số 3 đồn trú tại Ninh Bình do Thiếu tá Phạm Văn Đổng làm Chỉ huy trưởng. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, ký kết Hiệp định Genève. Ông cùng đơn vị di chuyển vào Nam. Hạ tuần tháng 7, ông được cử làm Trưởng phòng 3 Đệ nhị Quân khu. Cuối năm, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Tham mưu trưởng Đệ nhị Quân khu thay thế Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệu. Tháng 8 năm 1955, ông được thăng cấp Trung tá giữ chức vụ Tham mưu phó Tiếp vận tại Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia thay thế Trung tá Đặng Văn Quang.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Cuối tháng 10 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc Trưng cầu Dân ý với mục đích thành lập nền cộng hòa tại miền nam, ông là một trong số sĩ quan nhiệt tình ủng hộ Thủ tướng Diệm. Do có công trong sự kiện này, nên tháng 8 năm 1957 ông được Thủ tướng thăng cấp Đại tá, được cử Xử lý thường vụ chức vụ Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Cuối năm ông được đi du học lớp Chỉ huy Tham mưu cao cấp tại Học viện Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth, Kansas, Hoa Kỳ trong thời gian 16 tuần.

Đầu tháng 5 năm 1958 mãn khóa học ở Hoa Kỳ về nước, ông được cử làm Tư lệnh Sư đoàn Dã chiến số 4, thay thế Trung tá Ngô Du (Đầu tháng 12 năm 1958, Sư đoàn Dã Chiến số 4 được cải danh thành Sư đoàn 7 Bộ Binh). Ngày 30 tháng 3 năm 1959, bàn giao Sư đoàn 7 Bộ binh lại cho Trung tá Huỳnh Văn Cao. Sau đó ông được chuyển về tùng sự ở Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 2 năm 1960, ông chuyển về miền Tây Nam phần giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh thay thế Trung tá Trần Thanh Chiêu, đồng thời thay Đại tá Nguyễn Văn Y ở chức vụ Tư lệnh Đệ ngũ Quân khu, phụ trách vùng Miền Tây Nam phần. Đại tá Y được chuyển về Trung ương.

Khi Cuộc đảo chính quân sự ngày 11 tháng 11 năm 1960 nổ ra, ông chỉ huy Sư đoàn 21 Bộ binh kéo về Sài Gòn để giải vây cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, chống lại nhóm sĩ quan cầm đầu là Đai tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Do hành động giải vây trên, ông rất được Tổng thống Diệm tín nhiệm. Đầu tháng 12 năm 1962, bàn giao Sư đoàn 21 Bộ binh lại cho Đại tá Bùi Hữu Nhơn để về tùng sự tại Bộ Tổng Tham mưu. Ngày 6 tháng 12, ông được thăng cấp Thiếu tướng. Mười ngày sau ông được cử giữ chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân, thay cho người tiền nhiệm là Thiếu tướng Nguyễn Khánh

Giữa năm 1963, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ sang Hoa Kỳ chữa bệnh. Ngày 27 tháng 7 cùng năm, bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm. Sau đó ông được chỉ định Xử lý Thường vụ chức vụ Tổng tham mưu trưởng tạm thời thay tướng Tỵ. Hơn một tháng sau, Tổng thống Diệm chính thức bổ nhiệm Trung tướng Trần Văn Đôn làm quyền Tổng Tham mưu trưởng thay ông, đồng thời tái bổ nhiệm ông trở lại với chức vụ Tham mưu trưởng Liên quân thay thế tướng Nghiêm.

Mưu sĩ của các cuộc đảo chính

Tuy vậy, tướng Khiêm lại là một trong những tướng lĩnh chủ chốt tham gia Cuộc Đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Với cương vị Tham mưu trưởng Liên quân, tướng Khiêm được cho là có những động thái tích cực để vạch kế hoạch và điều động các đơn vị tham gia đảo chính vào Sài Gòn cũng như cách ly các đơn vị trung thành với Tổng thống Diệm. Sau cuộc đảo chính, ngày 2 tháng 11 ông được thăng cấp Trung tướng kiêm chức vụ Ủy viên Quân sự trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do Trung tướng Dương Văn Minh làm Chủ tịch. Ngày 17 tháng 12, với tư cách là Ủy viên Quân sự, ông cùng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa do Đại sứ Phạm Đăng Lâm làm Trưởng đoàn, sang Seoul tham dự lễ nhậm chức Tổng thống Đại Hàn của Trung tướng Phác Chánh Hy.

Đầu năm 1964, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật, kiêm Tổng trấn Sài Gòn thay thế Trung tướng Tôn Thất Đính. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau, ông cùng với người bạn cũ là tướng Nguyễn Khánh đã thực hiện cuộc "Chỉnh lý" chớp nhoáng, cướp quyền của Hội đồng Quân nhân Cách mạng, đưa tướng Khánh lên nắm quyền tối cao. Để trả công, ông được tướng Khánh giao giữ chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tư lệnh Quân lực, sau khi bàn giao Quân đoàn III lại cho Thiếu tướng Lâm Văn Phát. Ngày 11 tháng 8, ông được thăng cấp Đại tướng và trở thành người thứ 2 sau tướng Lê Văn Tỵ thụ phong hàm Đại tướng của Việt Nam Cộng hòa.

Thắng làm Vua, thua làm Đại sứ

Nhằm dung hòa mâu thuẫn giữa các tướng lãnh lãnh đạo, giải pháp "Tam đầu chế" ra đời. Ngày 27 tháng 8 năm 1964, ông được Hội đồng Quân lực (hậu thân của Hội đồng Quân Nhân Cách mạng) gồm 53 thành viên tướng lãnh họp tại Bộ Tổng Tham mưu, bầu vào Ủy ban Lãnh đạo Lâm thời Quốc gia và Quân lực cùng với hai tướng Dương Văn Minh và Nguyễn Khánh. Tuy nhiên, mâu thuẫn quyền lực đã nẩy sinh với ông bạn cũ Nguyễn Khánh. Sau cuộc binh biến ngày 13 tháng 9 do tướng Dương Văn Đức phát động, tướng Khánh nghi ngờ có sự hậu thuẫn của ông, nên từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 10, ông bị tướng Khánh buộc phải bàn giao hai chức vụ Tổng trưởng Quốc phòng và Tổng Tư lệnh Quân lực lại cho tướng Khánh kiêm nhiệm (đây là một động thái thâu tóm quyền lực của tướng Khánh). Ngày 7 tháng 10, ông được cử làm Trưởng phái đoàn công du thăm viếng thiện chí Vương quốc Anh và Liên bang Tây Đức để cám ơn các Quốc gia này đã từng hỗ trợ cho Việt nam Cộng hòa trong công cuộc chống Cộng sản. Ngày 24 tháng 10 cùng năm hết hạn công du, thay vì trở về nước, ông nhận được quyết định của tướng Khánh đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Hoa Kỳ

Giữa năm 1965, sau khi nhóm các tướng trẻ do tướng Nguyễn Cao Kỳ và một người bạn cũ của ông là tướng Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu, đã buộc tướng Khánh phải rời khỏi mọi chức vụ để đi làm "Đại sứ Lưu động", ông nghĩ rằng có thể được trở về. Tuy nhiên vào tháng 10 năm 1965, hết nhiệm kỳ Đại sứ tại Hoa Kỳ, ông lại nhận được quyết định từ tướng Nguyễn Cao Kỳ đương nhiệm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, tiếp tục đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Đài Loan thay thế Trung tướng Phạm Xuân Chiểu (thực chất đây là một hình thức ông bị đẩy đi lưu vong ở nước ngoài).

Trở về nắm quyền

Mãi đến năm 1967, người bạn cũ Nguyễn Văn Thiệu sau khi đã ngồi chắc vào chiếc ghế Tổng thống, đã dùng nhiều biện pháp để loại trừ vây cánh của tướng Nguyễn Cao Kỳ (lúc đó đã là Phó Tổng thống), tháng 5 năm 1968, ông mới được triệu hồi về nước và được giao chức vụ Tổng trưởng Nội vụ trong Chính phủ Trần Văn Hương. Đầu năm 1969, ông được cử làm Phó Thủ tướng đặc trách bình định. Đến ngày 22 tháng 8 cùng năm, Thủ tướng Trần văn Hương từ chức, ông được Tổng thống Thiệu chỉ định làm Thủ tướng và lập Nội các Chính phủ mới. Khi tướng Nguyễn Văn Vỹ bị cách chức Tổng trưởng Quốc phòng năm 1972, ông được cử kiêm nhiệm luôn chức vụ này đến tháng 4 năm 1975.

*Nội các Chính phủ Trần Thiện Khiêm từ 2/1974 đến 4/1975 được ấn định thành phần nhân sự như sau:
-Thủ tướng Chính phủ -Đại tướng Trần Thiện Khiêm
-Đệ nhất Phó Thủ tướng -Bác sĩ Phan Quang Đán
-Đệ nhị Phó Thủ tướng -Trung tướng hồi hưu Trần Văn Đôn
-Tổng trưởng Ngoại giao -Luật sư Vương Văn Bắc
-Tổng trưởng Tư pháp -Ông Dương Đức Thụy
-Tổng trưởng Nội vụ -Ông Lê Công Chất
-Tổng trưởng Văn hóa-Giáo dục-Thanh niên -Dược sĩ Ngô Khắc Tỉnh
-Tổng trưởng Tài chính -Đốc sự Châu Kim Nhân
-Tổng trưởng Thương mại-Kỹ nghệ -Kỹ sư Nguyễn Đức Cường
-Tổng trưởng Canh nông -Kỹ sư Tôn Thất Trình
-Tổng trưởng Công chánh-Giao thông -Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng
-Tổng trưởng Dân vận-Chiêu hồi -Kỹ sư Hoàng Đức Nhã
-Tổng trưởng Y tế -Bác sĩ Huỳnh Văn Hưởng
-Tổng trưởng Lao động -Ông Đàm Sĩ Hiến
-Tổng trưởng Cựu chiến binh -Bác sĩ Hồ Văn Châm
-Tổng trưởng Phát triển Sắc tộc -Ông Nay Luett
-Bộ trưởng Phủ Thủ tướng -Đốc sự Bửu Viên
-Thứ trưởng Giáo dục -Giáo sư Bùi Văn Hào

1975

Tháng 3 năm 1975, sau khi Quân đội nhân dân Việt Nam đã kiểm soát được hầu hết miền Trung và Cao nguyên, trước áp lực của Hoa Kỳ đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ sâu rộng thành phần chính phủ để ổn định nội tình Miền Nam và có đủ sức mạnh để đối thoại với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã yêu cầu ông từ chức để mời Dân biểu Nguyễn Bá Cẩn, Chủ tịch Hạ viện, thành lập Chính phủ mới. Ngày 5 tháng 4 năm 1975 ông chính thức từ chức, rời khỏi các chức vụ. Ngày 21 tháng 4 đến lượt tổng thống Thiệu cũng từ chức, giao quyền Tổng thống cho phó Tổng thống Trần Văn Hương.

Đêm 25 tháng 4, ông cùng với cựu Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam sang Đài Loan. Sau đó qua định cư tại Tiểu bang Virginia rồi di chuyển sang Thành phố Houston, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Sau cùng ông định cư ở Tp Garden Grove, Nam Califonia.

''Những giờ phút cuối cùng của ông tại Việt Nam được cựu điệp viên CIA Frank Snepp ghi lại trong quyển "Decent Interval" như sau:

(Khoảng 5 giờ chiều 25 tháng 4 năm 1975, Polgar gọi tôi, Joe Kingsley, tướng Timmes và một nhân viên khác của sở đến văn phòng: "Các anh có thể tìm đường quanh Sài Gòn ban đêm". "Tốt". "Vì tôi muốn các anh giúp tôi đưa Thiệu và Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay". Đại sứ Martin sau này thú nhận với tôi là ông đã tiếc vì đã nhờ Polgar, Giám đốc CIA ở Việt Nam, thay vì nhờ cơ quan DAO và than phiền Polgar đã không làm được việc giao phó cho đúng. "Tôi đã yêu cầu ông ấy đánh máy hồ sơ cần thiết cho Thiệu và đem theo với ông ấy khi các anh vào Tân Sơn Nhất. Nhưng ông ấy không làm được. Ông ấy quên giấy. Ông ấy bảo là không tìm thấy bàn đánh máy chữ". Kết quả là Thiệu rời khỏi xứ trên máy bay Mỹ mà không có giấy tờ chấp thuận của Việt Nam hay phía Mỹ.

Timmes, hai nhân viên khác và tôi lấy ba chiếc Limousine từ nhà xe của cơ quan CIA khoảng 8 giờ 30 tối và lái xe đến Bộ Tư lệnh Quân đội miền Nam ngoài Tân Sơn Nhất nơi Khiêm cư ngụ.

Ngay sau 9 giờ tối, Polgar đến nhà Khiêm với xe riêng và tài xế. Trong khi ông ta uống rượu với Khiêm và Timmes trong nhà, tất cả chúng tôi ra ngoài sân nghỉ chân).

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, ông từ trần tại Nam California, hưởng thọ 96 tuổi.

Huy chương

-Bảo quốc Huân chương đệ nhị đẳng (ân thưởng)
-Nhiều Huân, Huy chương quân sự, dân sự Việt Nam Cộng hòa và ngoại quốc.

Gia đình

Bào huynh:
Ông Trần Thiện Khởi (sn: 1918 tại Sài Gòn. Nguyên là Tổng Giám đốc Quan thuế Việt Nam Cộng hòa).
Ông Trần Thiện Phương (sn: 1920 tại Sài Gòn, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu. Nguyên là Đại tá Giám đốc Thương cảng Sài Gòn. Giải ngũ năm 1970).
Ông Trần Thiện Ngươn (sn: 1923 tại Long An, tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt K12. Sau cùng là Đại tá phục vụ tại Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa).
Phu nhân:
Bà Đinh Thùy Yến (1934 - 2004), còn gọi là Tư Nết, tên Pháp là Annette, con gái một đại điền chủ vùng Rạch Giá. Bà từng trúng cử Dân biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa (1959 - 1963).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Thiện Khiêm** (1925-2021) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Liên quân
**Trần Trọng Khiêm** (1821-1866), sau đổi tên là **Lê Kim**, là một chỉ huy trong công cuộc chống Pháp do Võ Duy Dương lãnh đạo tại Đồng Tháp (Việt Nam) ở giữa thế kỷ 19.
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trần Thanh Phong** (1926–1972) nguyên là Thiếu tướng Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, tử nạn được truy thăng Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia được mở
**Nguyễn Văn Thiện** (1928-1970), nguyên là một tướng lĩnh sĩ gốc Kỵ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Sĩ
**Trần Văn Chương** (1898 – 1986) là một luật sư Việt Nam, người từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thời kỳ Đế quốc Việt Nam, rồi Bộ trưởng Bộ Kinh tế của Việt
**Trần Văn Đôn** (1917-1998) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan Trừ bị ở Pháp, sau đó được
**Trần Tuyên Đế** (chữ Hán: 陳宣帝, 530–582), tên húy là **Trần Húc** (), hay **Trần Đàm Húc** (陳曇頊), tên tự **Thiệu Thế** (紹世), tiểu tự **Sư Lợi** (師利), là một hoàng đế của triều Trần
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm** là các công trình kiến trúc – văn hóa gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm ngay tại quê nội
**Trận Di Lăng** (chữ Hán: 夷陵之戰 _Di Lăng chi chiến_) hay còn gọi là **trận Khiêu Đình** (猇亭之戰 _Khiêu Đình chi chiến_) hoặc **trận Hào Đình**, là trận chiến giữa nước Thục Hán và nước
Khái niệm về một **Đấng Tối cao** hay **Thượng đế** là đa dạng, với các tên gọi khác nhau phụ thuộc vào cách nhìn nhận của con người về vị thần này, từ Trimurti của
**Lê Văn Nghiêm** (1912 – 1988) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan của Quân đội thuộc địa Pháp mở
**Tăng Cẩm Khiêm** là một lãnh đạo quân sự của Thái Bình Thiên Quốc, một nhà nước chống lại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc,ông nắm giữ tước vị Vệ Thiên hầu của Thái
**Phạm Hữu Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1928), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa duy nhất
**Albert Phạm Ngọc Thảo** (1922–1965) là một cán bộ tình báo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông hoạt động dưới vỏ bọc là một sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam
**Trận Quan Độ** là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu – 2 thế lực quân
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
Ỷ Thiên Đồ Long ký là bộ tiểu thuyết nằm trong Xạ điêu tam bộ khúc của Kim Dung, phần tiếp theo của Anh hùng xạ điêu và Thần điêu hiệp lữ, trong truyện có
**Trận Bạch Giang**, cũng được gọi là **Trận Baekgang** hay **Trận Hakusukinoe**, xảy ra ngày 28 tháng 8 năm 663 tại Sông Bạch Giang (nay Sông Geum, Hàn Quốc). Trận này liên quan liên minh
nhỏ|Thiên thần [[Lucifer, tức Satan, rơi xuống từ thiên đàng. Minh họa trong _Thiên đường đã mất_ (1667) của John Milton. Dù từng là sủng thần của Thượng Đế, Lucifer đã trở thành một thiên
Trang bìa cuốn "Huấn thị điều hành căn bản Kế hoạch Phụng Hoàng" Tập số 3, bản kín (mật) số hiệu 2211 **Chiến dịch/Kế hoạch/Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng** (tiếng Anh: _Phoenix Program_) (1968-1975) là
Đây là danh sách các nhân vật xuất hiện từ tiểu thuyết võ hiệp **_Thiên long bát bộ_** của nhà văn Kim Dung. Có hơn 230 nhân vật trong cuốn tiểu thuyết, bao gồm cả
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
**Cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn**, ở Trung Quốc được gọi là **Sự cố ngày 4 tháng 6** (), là các cuộc biểu tình do sinh viên lãnh đạo được tổ chức
**Trần Tiễn Thành** (chữ Hán: 陳踐誠, 1813-1883), trước có tên là **Dưỡng Độn**, sau kỵ quốc úy đổi là **Thời Mẫn**, sau nữa được vua Tự Đức ban tên là **Tiễn Thành**, hiệu là **Tốn
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt** là thiền viện thuộc thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền viện cách trung tâm thành phố Đà Lạt 5 km, nằm trên núi Phụng Hoàng, phía trên Hồ Tuyền
**Chiến dịch Tây Nguyên** (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật danh **Chiến dịch 275**, là chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975
**Trần Thu Hà** (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1977), còn được biết đến với nghệ danh **Hà Trần**, là một nữ ca sĩ kiêm nhà sản xuất nhạc người Việt Nam. Nổi tiếng với
**Trận Kunersdorf**, còn viết là **Trận Cunnersdorf** với bản thân ông cũng chỉ thoát nạn trong gang tấc. biểu dương sâu sắc sức mạnh của quân Nga. Ngoài ra, thắng lợi này cũng chứng tỏ
**Trần Khát Chân** (chữ Hán: 陳渴真; 1370–1399) là một tướng lĩnh Đại Việt cuối thời Trần. Ông nổi bật với việc chỉ huy quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành,
là vị Thiên hoàng thứ 123 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 30 tháng 7 năm 1912, tới khi qua đời năm 1926. Tên húy của Thiên
**Bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới** (tiếng Anh: New 7 Wonders of Nature) là một cuộc bình chọn do công ty tư nhân New Open World (NOW) Corporation, đặt trụ sở tại Thụy
**Tôn Thất Đính** (1926–2013) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia
nhỏ|phải|Hình Hòa Thượng Nguyễn Văn Hiển trên Bảo Tháp chùa Phi Lai - Châu Đốc Hòa thượng **Thích Chí Thiền** (1861-1933), còn được giới tăng sĩ tôn xưng là **Tổ Phi Lai**, là một nhân
**Nguyễn Chánh Thi** (1923-2007) nguyên là một cựu tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ một trường Võ bị Địa phương do
**Từ thiện** là một hành động trợ giúp người yếu kém, người gặp nạn, hoặc có hoàn cảnh khó khăn. Hoạt động từ thiện có thể thông qua hình thức quyên góp, hiến tặng bằng
thumb|Một minh họa y học của [[Sharaf ad-Din Ali Yazdi mô tả thiến, khoảng năm 1466]] **Thiến** hay **hoạn** bất kỳ hành động, phẫu thuật hay dùng hóa chất khiến tinh hoàn động vật giống
**Trận Phì Thủy** (Phì Thủy chi chiến: 淝水之戰) là trận đánh nổi tiếng năm 383 thời Đông Tấn - Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa quân Tiền Tần và quân
**Trần Kiện** (chữ Hán: 陳鍵, ? - 1285), sau này đổi họ thành **Mai Kiện**, là một quý tộc nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, Trần Kiện
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Huỳnh Văn Cao** (1927 - 2013) là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông là một trong số ít tướng lĩnh được Tổng thống
**Trần Trịnh** (1937–2012) tên thật là **Trần Văn Lượng** là một nhạc sĩ người Việt nổi tiếng và có sức ảnh hưởng lớn tại miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại về sau. Tuy
nhỏ|Một nữ y tá và những trẻ em tị nạn trong chiến dịch Không vận Trẻ em Việt Nam **Chiến dịch Không vận Trẻ em** (tiếng Anh: **Operation Babylift**) là một chiến dịch di tản
là Thiên hoàng thứ 33 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, đồng thời là Nữ hoàng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản có thể khảo chứng được. Triều đại của
Trương Đạo Lăng, người sáng lập tông phái **Thiên sư Đạo** (chữ Hán: 天师道), còn gọi là **Ngũ Đấu Mễ Đạo** (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), **Chính Nhất Đạo** (正一道), **Chính Nhất Minh
nhỏ|Lược đồ chiến dịch Thổ Mộc bảo **Trận bảo vệ kinh sư**, còn gọi là **Trận bảo vệ Bắc Kinh**, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) dưới thời Minh Anh