✨Tôn Thất Đính

Tôn Thất Đính

Tôn Thất Đính (1926–2013) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Trung Việt Nam, được sự cố vấn và hỗ trợ huấn luyện của Quân đội Pháp. Ông cũng là một Nghị sĩ giữ chức vụ cao trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Là một trong số ít các sĩ quan được ưu ái và thăng cấp tướng trong thời kỳ Đệ Nhất Cộng hòa, tuy nhiên, ông lại là một trong những nhân vật chủ chốt trong cuộc Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963 và có liên quan đến cái chết của Ngô Đình Diệm, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa, và người em ruột là Cố vấn Ngô Đình Nhu.

Thân thế

Tôn Thất Đính có biệt danh là Ba Đính. Ông sinh ngày 20 tháng 11 năm 1926 tại Huế, Thừa Thiên trong một gia đình Tôn thất nhà Nguyễn có truyền thống hiếu học. Thời niên thiếu, ông học tiểu học và trung học ở Huế, năm 1944 ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó lên ở với người anh cả là ông Tôn Thất Đĩnh ở Đà Lạt, tại đây ông trúng tuyển kỳ thi ngạch Thông phán (Thư ký Hành chính) và được tùng sự tại Tòa Công sứ Đà Lạt.

Tham gia kháng chiến

Năm 1945, Việt Minh giành chính quyền từ tay người Nhật Bản. Với sự nhiệt tình ái quốc của tuổi trẻ, khi người Pháp tái chiếm Bán đảo Đông Dương, ông hưởng ứng phong trào học sinh yêu nước trong cao trào kháng Pháp bấy giờ, tham gia Lực lượng Quân sự của Việt Minh chống Pháp, làm Ủy viên Chính trị một Trung đội trong Tiểu đoàn Vệ quốc Quân Việt Minh tại Đà Lạt . Ông cùng đơn vị mình tham gia chiến đấu chống lại Liên quân Anh – Pháp – Nhật tại mặt trận Đà Lạt – Đơn Dương. Cùng chiến đấu tại đây có một Tiểu đoàn trưởng Việt Minh tên là Đỗ Mậu, người về sau đóng vai trò quan trọng cuộc đời binh nghiệp của ông sau này.

Tuy nhiên do sự yếu kém trong tổ chức kháng chiến cũng như sức mạnh hỏa lực của đối phương, mặt trận nhanh chóng tan vỡ, đơn vị ông cũng tan rã hoàn toàn. Ông bỏ trốn về Đà Lạt, ẩn náu trong nhà người anh. Để tránh bị bắt bớ giam cầm, ông xin làm Thư ký cho Ty Cảnh sát Pháp. Nhưng đầu năm 1948, ông bị phát hiện từng tham gia Việt Minh chống Pháp nên bị Chính quyền Pháp bắt giam. Nhờ sự bảo lãnh của người anh trai, bấy giờ đang là một chuyên viên đang làm việc tại Viện Pasteur Đà Lạt, ông được thả tự do với cam kết không được tham gia các hoạt động chống Pháp.

Binh nghiệp

Trong một chuyến về thăm gia đình tại Huế, ông gặp được một người quen cũ là Đỗ Mậu, bấy giờ đang làm Trưởng phòng 3 Bộ Tham mưu Việt binh Đoàn tại Huế, một Lực lượng Quân sự bổ sung (forces supplétives) của quân đội Pháp. Do sự giới thiệu của ông Mậu, ông gia nhập Việt binh Đoàn. Sau khóa đào tạo Hạ sĩ quan tại Mang Cá (Huế), ông được phân bổ về làm Thư ký ở phòng Bí thư Bộ Tham mưu với cấp bậc Trung sĩ. Với học lực Tú tài Pháp, ông được cử theo học khóa 1 Bảo Đại, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1948. Ngày 1 tháng 6 năm 1949 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chuyển đến trường Hạ sĩ quan An Cựu, Huế làm Huấn luyện viên. Giữa năm 1950, ông được chọn sang Pháp du học ở trường Kỵ binh Saumur (École de cavalerie de Saumur).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Đầu năm 1951, mãn khóa học về nước, ông được cử làm Đại đội trưởng Đại đội Ngự lâm quân đồn trú tại Thành Nội Huế. Năm 1952, ông được thăng cấp Trung úy và được chỉ định làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 12 Việt Nam (12e BVN) kiêm Phân khu trưởng Phân khu Hòa Luật, Quảng Bình. :Bấy giờ, ông được đánh giá là "người can trường, say mê chiến trận, lập được nhiều chiến công nên được tướng Nguyễn Văn Hinh thương mến và được thăng cấp mau lẹ" thay thế Trung tá Nguyễn Quang Hoành. Tháng 4 cùng năm, bàn giao Liên đoàn 31 lại cho Thiếu tá Nguyễn Hữu Có, ông được cử theo học khóa Chỉ huy Liên đoàn Chiến thuật cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Quân sự Hà Nội. Tháng 6 mãn khóa học, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Liên đoàn Chiến thuật số 32 Bộ binh Việt Nam.

Sau hiệp định Genève, ông cùng đơn vị di chuyển vào Nam, đóng quân tại Phân khu Duyên hải Nha Trang, liên tiếp chỉ huy đơn vị hành quân tiếp thu Bình Định, Quảng Ngãi, sau khi Lực lượng Việt Minh rút đi tập kết. Đầu tháng 8 năm 1954, được sự giới thiệu của Trung tá Đỗ Mậu ông bí mật gia nhập Đảng Cần Lao Nhân vị và trở thành một thành viên tích cực ủng hộ Thủ tướng Ngô Đình Diệm giành được quyền lực, được cử làm Ủy viên Quân ủy Trung ương. Ngày 1 tháng 2 năm 1955, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Cùng thời điểm này Liên đoàn 32 Chiến thuật được tổ chức thành Sư đoàn 32 Bộ binh tại Đà Nẵng và ông làm Tư lệnh Sư đoàn.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Vị tướng trẻ của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng hòa

Sau khi Thủ tướng Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa và trở thành Tổng thống đầu tiên, ông trở thành một sĩ quan trẻ được trọng dụng. Hạ tuần tháng 7 năm 1957, ông được lệnh bàn giao Sư đoàn 32 lại cho Trung tá Đặng Văn Sơn. Một tháng sau ông được cử đi du học lớp Chỉ huy và Tham mưu cao cấp tại Học viện quân sự Fort Leavenworth, Tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ (niên khóa 1957-2, thụ huấn 16 tuần.. Tháng 12 năm 1957, sau khi du học ở Mỹ về, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Dã chiến số 1, cùng năm này ông được cử đi du học ngắn hạn khóa Chỉ huy Hành quân hỗn hợp Binh chủng ở trường Cao đẳng Chiến tranh tại Okinawa, Nhật Bản. Đầu tháng 8 năm 1958, ông được thăng cấp Thiếu tướng (khi mới 32 tuổi) và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Trần Ngọc Tám, sau khi bàn giao Sư đoàn Dã chiến số 1 lại cho Đại tá Nguyễn Văn Chuân

Người hùng Đảo chính 1963

Dù có được sự sủng ái của Tổng thống Diệm, ông vẫn bị Cố vấn Nhu đánh giá là một người bốc đồng, tự cao tự đại và huênh hoang, thích rượu chè và tiệc tùng, những yếu tố rất nguy hiểm cho một tướng lĩnh cầm quân. Bên cạnh đó, ông cũng dính vào một số cáo buộc về việc bao che cho người anh trai Tôn Thất Đĩnh độc quyền khai thác gỗ ở Cao nguyên Trung phần cũng như việc đưa người em Tôn Thất Đình làm sĩ quan văn phòng để không phải tham gia chiến đấu. Mặc dù vậy, ông vẫn được xem là không có tham vọng chính trị và đứng đầu sổ về lòng trung thành với Tổng thống Diệm. Sau vụ Binh biến năm 1962 do 2 phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lái 2 chiếc máy bay khu trục Skyraider ném bom Dinh Độc Lập. Ngày 7 tháng 12 năm 1962, bàn giao Quân đoàn II lại cho Thiếu tướng Nguyễn Khánh, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn III & Vùng 3 Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm. Đến ngày 21 tháng 8 năm 1963, kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, giám sát khu vực xung quanh Đô thành. Với vai trò đó, ông trở thành một yếu tố quan trọng trong sự thành công hay thất bại của bất kỳ cuộc đảo chính nào.

Cuối năm 1963, các sĩ quan cao cấp, vốn bị thất sủng, đã thuyết phục ông kiến nghị Tổng thống Diệm trao cho ông một chức vụ trong Nội các, dù biết rằng Tổng thống Diệm cực lực phản đối. Bất mãn khi bị Tổng thống Diệm khước từ, ông chấp nhận tham gia nhóm các sĩ quan dự định đảo chính.

Không nắm được những biến chuyển này, khi Tổng thống Diệm và em trai là cố vấn Ngô Đình Nhu biết được có một âm mưu đảo chính, đã lên kế hoạch một cuộc đảo chính giả nhằm bẫy đối thủ. Trong kế hoạch này, ông được giao đóng vai trò quan trọng cốt yếu. Hai anh em ông Diệm và Nhu đều không ngờ rằng, toàn bộ kế hoạch phản đảo chính đều bị tướng Đính thông tin cho nhóm đảo chính. Qua đó, nhóm đảo chính đã kịp thời bố trí các đơn vị trung thành với chế độ ở xa bên ngoài Sài Gòn và điều các lực lượng nổi dậy về gần Đô thành.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, cuộc Đảo chính nổ ra. Ông Diệm và Nhu bị lật đổ và bị hành quyết sau khi nhận ra một cách muộn màng sự phản bội của ông. Ngày 2 tháng 11, ông được thăng cấp Trung tướng và được cử vào chức vụ Đệ Nhị Phó Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng kiêm Tổng trưởng An ninh trong Nội các của Chính phủ Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ sau khi bàn giao chức vụ Tổng trấn Sài Gòn lại cho Trung tướng Mai Hữu Xuân.

Ngày 30 tháng 1 năm 1964, do mâu thuẫn quyền lợi, tướng Nguyễn Khánh từ Pleiku đã lén về Sài Gòn tiến hành trót lọt "Cuộc Chỉnh lý". Ngày 5 tháng 2, ông bị tướng Khánh buộc bàn giao chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III lại cho Trung tướng Trần Thiện Khiêm (nguyên Tham mưu trưởng Bộ Tổng Tham mưu). Ngày 14 tháng 2, ông cùng các tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Vỹ (mới trở về từ Pháp) bị buộc tội có xu hướng "Trung lập", bị bắt và quản thúc, loại khỏi Chính quyền Quân sự. Ông bị biệt giam tại Pleiku trong một thời gian, sau đó bị đưa về quản thúc tại Đà Lạt. Thời điểm này ở Cao nguyên Trung phần xảy ra cuộc bạo loạn do lực lượng Fulro của người một nhóm người sắc tộc ở các tỉnh Darlac, Pleiku và Kontum khuấy động đòi tự trị. Ngày 14 tháng 11 ông được tướng Khánh triệu ra làm Tư lệnh Quân đoàn II kiêm Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hành quân dẹp loạn Fulro. Sau khi dẹp loạn thành công, ông bị quản thúc tiếp tại Vũng Tàu Đến cuối tháng 12, ông mới được tướng Khánh cử giữ chức vụ Tổng thanh tra Quân lực kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn (những chức vụ chẳng có mấy quyền lực).

Ngày 9 tháng 4 năm 1966, thời điểm vụ Biến động Phật giáo miền Trung xảy ra ở Huế, ông nhận lệnh bàn giao Tổng cục Quân huấn lại cho Thiếu tướng Lữ Lan, ông được cử giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I & Vùng I Chiến thuật thay thế Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân. Nhưng vì ông cũng bất lực trước tình hình như 2 Tư lệnh tiền nhiệm là các tướng Nguyễn Chánh Thi, Chuân và có xu hướng ngả theo nhóm Phật tử cầm đầu vụ Biến động nên ông bị triệu hồi về Sài Gòn, thay thế ông là Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Giữa tháng 7 cùng năm, ông bị buộc phải giải ngũ khi mới 40 tuổi.

Sự nghiệp chính trị

Trở về đời sống dân sự một thời gian, Đầu năm 1967, ông ra ứng cử vào Thượng viện trong Quốc hội và đắc cử Nghị sĩ trong Liên danh Hoa Sen, được cử làm Chủ nhiệm Nhật báo Công Luận do. Chủ tịch Thượng viện khóa này là Luật sư Nguyễn Văn Huyền. Tháng 1 năm 1970, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Thượng viện kiêm Chủ tịch Hội Chủ báo Việt Nam thay thế Nghị sĩ Trung tướng Trần Văn Đôn mãn nhiệm. Tiếp đến, ông làm Trưởng Khối Xã hội Dân chủ. Năm 1973, ông tái tranh cử và đắc cử Thượng Nghị sĩ nhiệm kỳ 1973-1979 do Dược sĩ Trần Văn Lắm làm Chủ tịch.

Từ sau 1975

Cuộc sống lưu vong

Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó, ông sang Hoa Kỳ định cư, lúc đầu ở Tiểu bang Virginia. Về sau, ông chuyển về Garden Grove, rồi Westminster, thuộc Tiểu bang California và sống ở đây đến cuối đời.

Ngày 21 tháng 11 năm 2013, ông từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 87 tuổi.

Tang lễ được cử hành trọng thể tại Nam California theo nghi thức của quân đội.

Huy chương

Bảo quốc Huân chương đệ nhị đẳng (ân thưởng)
Nhiều huy chương quân sự, dân sự của VNCH
Một số huy chương ngoại quốc: Hoa Kỳ, Thái Lan, Philippines và Trung Hoa Dân quốc.

Tác phẩm

*Hai mươi năm Binh nghiệp (1998)

Gia tộc

Theo Tộc phả của Dòng tộc Nguyễn Phúc, tướng Đính thuộc hệ thứ 9 của Hoàng tộc nhà Nguyễn, hậu duệ của Ông Hoàng Mười tức Dục vận Công thần Trấn quốc Đại tướng quân Nguyễn Phúc Yến.

Gia đình

Thân phụ: Cụ Tôn Thất Dinh (1888–1951) Thân mẫu: Cụ Ngô Thị Đồng Nhạc phụ: Cụ Nguyễn Thụy Long Nhạc mẫu: Cụ Nguyễn Thị Tín Các anh chị: Bà Tôn Nữ Thị Chi, Ông Tôn Thất Đỉnh, Bà Tôn Nữ Thị Sâm, Ông Tôn Thất Dĩnh Các em: Ông Tôn Thất Đình, Bà Tôn Nữ Hồng Lê Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Phương Đông (vợ cả), Phạm Helene (vợ kế) Các con: Tôn Thất Hoàng Hưng, Tôn Nữ hoàng Linh, Tôn Thất Hoàng Huy, Tôn Nữ hoàng Lan

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tôn Thất Đính** (1926–2013) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị do Chính phủ Quốc gia
**Tôn Thất Đính** (chữ Hán: 尊室訂; 15 tháng 7 năm 1812 – 5 tháng 7 năm 1893) là một võ quan đề đốc nhà Nguyễn dưới thời vua Tự Đức. Ông thuộc dòng tông thất
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Tôn Thất Liệt** hay **Tôn Thất Lệ** (尊室𧧋. ?-1885) là một võ tướng nhà Nguyễn cuối thế kỷ 19, được triều đình Nhà Nguyễn phong chức Tham biện Sơn phòng Quảng Trị. Ông giữ một
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Tôn Thất Hân** (尊室訢; 10 tháng 5 năm 1854 – 3 tháng 9 năm 1944), tự **Lạc Chi** (樂之), hiệu **Liên Đình** (蓮亭), là quan chức triều Nguyễn Việt Nam, Phụ chính Đại thần thời
Tôn Thất Dương Kỵ Giáo sư **Tôn Thất Dương Kỵ** tên thật là **Nguyễn Phúc Dương Kỵ** (1914 – 1987) là nhà trí thức và chính khách người Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản
**Tôn Thất Lương** (1793 - 1846) là một quan đại thần dưới triều đại nhà Nguyễn. ## Cuộc đời Tôn Thất Lương thuộc dòng thứ bảy tôn thất nhà Nguyễn. Lúc nhỏ có học hạnh,
**Tôn Thất Xuân** (尊室春, ? - 1780) là phổ danh một hoàng thân và trọng thần triều Nguyễn. ## Lịch sử **Tôn Thất Xuân** (尊室春) chỉ là tôn hiệu được chép trong thế phả triều
**Tôn Thất Đàm** (1864 – 1888) là một trong những người chỉ huy của phong trào Cần Vương (1885 - 1896), với mục đích giúp vua cứu nước, khôi phục lại chế độ phong kiến
**Tôn Thất Tùng** (1912 – 1982) là một bác sĩ phẫu thuật người Việt, nổi danh trong lĩnh vực nghiên cứu về gan. Ông được biết đến là tác giả của "phương pháp mổ gan
**Tôn Thất** (chữ Hán: 尊室, chữ _Tôn_ đáng ra phải là _Tông_ [宗] (trong tổ tông), nhưng do kỵ tên huý vua Thiệu Trị nên đổi là _Tôn_) vốn là danh hiệu đặt cho nam
**Tôn Thất Trĩ** (1810-1861), là võ quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tháng 2 năm 1861, ông đã tử trận trong trận Đại đồn Chí Hòa. ## Tiểu sử sơ lược **Tôn Thất
Giáo sư **Tôn thất Trình** (sinh ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 27/9/1931 – mất ngày 12/7/2021 tại Hoa Kỳ) thuộc hoàng tộc nhà Nguyễn Phước (Phúc theo tiếng Bắc). Ông nội
**Tôn Thất Đàn** (1871 - 1936) (Hán Nôm: 尊室檀), tự **Hinh Nhi** (馨兒), hiệu **Lạc Viên Thị** (樂園氏), là danh thần triều Nguyễn Việt Nam, Hình bộ Thượng thư thời Bảo Đại. ## Tiểu sử
**Tôn Thất Xứng** (1923 – 2018) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị
**Tôn Thất Bách** (1946 - 2004) là một Phó giáo sư và nhà y khoa người Việt Nam, chuyên gia đầu ngành về phẫu thuật tim và gan mật của Việt Nam và thế giới.
**Tôn Thất Soạn** (sinh ngày 2 tháng 6 năm 1933) là sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông từng chiến đấu trong Binh chủng Thủy quân lục chiến từ
**Tôn Thất Hối** (1901 – 1975) là quan chức triều Nguyễn và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, con trai thứ chín của Tôn Thất Hân, từng được bổ nhiệm làm Công sứ Việt
**Tôn Thất Thiện** (22 tháng 9 năm 1924 – 3 tháng 10 năm 2014) là một nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam thời hậu Thế chiến II. Ông là một nhân vật đặc biệt
**Tôn Thất An** (chữ Hán: 尊室安, nghệ danh: **Aaken**) là nam nhạc sĩ, nhà soạn nhạc và sản xuất phim người Pháp gốc Việt, định cư tại Đài Loan, anh được biết đến khi soạn
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室洽; ? - ?) là con trai thứ 7 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Sinh thời, ông được phong tước **Văn quận công** (文郡公), từng giữ chức Chưởng cơ của
**Tôn Thất Niệm** (1 tháng 12 năm 1928 – 12 tháng 11 năm 2017) là bác sĩ và chính khách người Việt Nam, cựu Thượng nghị sĩ thời Đệ Nhị Cộng hòa và từng giữ
**Tổn thất vô ích do thuế** hay **tổn thất xã hội do thuế** (tiếng Anh: _Deadweight loss_) trong kinh tế vi mô được định nghĩa là độ giảm của tổng thặng dư xã hội, bao
**Tôn Thất Hiệp** (chữ Hán: 尊室協; 1653-1675) là một hoàng tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Ông từng là Nguyên soái thống lĩnh quân Đàng Trong đánh nhau với quân Trịnh vào năm
**Ngô Đình Nhu** (7 tháng 10 năm 19102 tháng 11 năm 1963) là một nhà lưu trữ và chính trị gia người Việt Nam. Ông nổi tiếng vì danh nghĩa là vị cố vấn chính
thumb|phải|220x220px|SP4 Ruediger Richter ([[Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung
**Tôn Thất Hoàn** () là doanh nhân người Úc gốc Việt. Ông là người đồng sáng lập và giám đốc điều hành của Clearview AI, một công ty công nghệ có trụ sở tại Hoa
**Tổn thất chấp nhận được** hay còn gọi là thiệt hại có thể chấp nhận được, là một uyển ngữ quân sự được sử dụng để chỉ ra thương vong nhân mạng hoặc hủy hoại
**Tranh cãi về cách xác định thương vong bằng đếm xác trong chiến tranh Việt Nam** () là một phương pháp của quân đội Mỹ và Đồng minh sử dụng nhằm xác định thương vong
**Phan Đình Phùng** (chữ Hán: 潘廷逢; 18471896), hiệu **Châu Phong** (珠峰), tự **Tôn Cát**, là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
nhỏ|Việc làm tại Hoa Kỳ được đo bằng 2 chỉ số chính: số lượng việc làm dân sự và tổng việc làm non-farm. (Việc làm non-farm là tổng việc làm trừ đi lĩnh vực nông
**Hiệp định đình chiến Compiègne** (, ) được ký vào ngày 11 tháng 11 năm 1918 trong một khu rừng gần thành phố Compiègne, thuộc vùng Picardy của Pháp. Hiệp định này đánh dấu sự
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
thumb|Hàng tồn kho linh kiện điện tử **Hàng tồn kho**, hay **hàng lưu kho** (tiếng Anh - Anh: **stock**; tiếng Anh - Mỹ: **inventory** ), là danh mục nguyên vật liệu và sản phẩm hoặc
**Nam Định** là một tỉnh cũ nằm ở phía Nam Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2023, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ
**Các định lý bất toàn của Gödel**, hay gọi chính xác là **Các định lý về tính bất hoàn chỉnh của Gödel** (tiếng Anh: **Gödel's incompleteness theorems**, tiếng Đức: **Gödelscher Unvollständigkeitssatz**), là hai định lý
**Khởi nghĩa Ba Đình** là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn
**Bảo tồn môi trường sống** là một hoạt động quản lý nhằm mục đích bảo tồn, bảo vệ và phục hồi các sinh cảnh và ngăn chặn sự tuyệt chủng, phân mảnh hoặc giảm phạm
**Trương Định** (chữ Hán: 張定; 1820 – 1864) hay **Trương Công Định** hoặc **Trương Trường Định**, là võ quan triều Nguyễn, và là thủ lĩnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong lịch sử
**Định lý Pythagoras**
Tổng diện tích của hai hình vuông có cạnh là hai cạnh vuông của tam giác vuông (_a_ và _b_) bằng diện tích của hình vuông có cạnh là cạnh huyền (_c_). Trong
Cổng đình Thông Tây Hội ngày nay **Đình Thông Tây Hội**, trước năm 1944 có tên **đình Hanh Thông Tây** là một ngôi đình cổ ở Gò Vấp. Đình được xây dựng vào khoảng năm
**Đinh Công Tráng** (1842 - 1887) là lãnh tụ chính của khởi nghĩa Ba Đình (tên cứ điểm ở huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa) trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở cuối thế
thumb|Một phân phối sản xuất dầu thế giới vào năm 1956, hiển thị dữ liệu lịch sử và sản xuất trong tương lai, được đề xuất bởi M. King Hubbert - nó có mức cao
**Định giá** là quá trình, trong đó một doanh nghiệp đặt giá tại mức mà đó họ sẽ bán sản phẩm và dịch vụ của mình và điều này có thể là một phần trong
Viên Uống Tiền Đình Khang KigonaGiúp tăng cường lưu thông máu và làm giảm nhanh các triệu chứng rối loạn tiền đình.BCó cách nào để ngủ thật ngon, không còn hoa mắt chóng mặt mệt
Đền Vua Đinh ở Nam Định Vùng đất Nam Định từ thế kỷ X vốn là đồng bằng châu thổ sông Hồng nằm gần kinh đô Hoa Lư, (Ninh Bình) xưa, nơi Vua Đinh Tiên
**Chiến khu Ba Đình** là một di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia ở Việt Nam, nằm trên địa bàn xã Ba Đình, nằm cách huyện lỵ huyện Nga Sơn, Thanh Hóa khoảng