✨Tổn thất nhân mạng trong Chiến tranh Việt Nam

Tổn thất nhân mạng trong Chiến tranh Việt Nam

thumb|phải|220x220px|SP4 Ruediger Richter ([[Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung sĩ Daniel E. Spencer (Bend, Oregon) nhìn xuống xác đồng đội. Trận chiến ban ngày kết thúc, họ chờ đợi trực thăng đến di tản đồng đội của họ khỏi các ngọn đồi có rừng nhiệt đới bao phủ tại tỉnh Long Khánh.]] Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết cho khoảng từ 2 đến 4 triệu người Việt (tính cả binh lính và dân thường tùy theo từng nguồn thống kê khác nhau). Đối với các lực lượng quân sự nước ngoài, Hoa Kỳ có số thương vong cao nhất với khoảng 58.200 binh sĩ chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Hàn Quốc có từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ chết và khoảng từ 11.000 đến 17.000 người bị thương, Trung Quốc có 1.446 binh sĩ chết trong đó 18 người chết và 67 bị thương trong Hải chiến Hoàng Sa, Úc có khoảng 500 binh sĩ chết và hơn 3.000 người bị thương, New Zealand có 38 binh sĩ chết và 187 người bị thương, Thái Lan có 351 binh sĩ chết, Liên Xô có 16 cố vấn quân sự chết, Bắc Triều Tiên có 14 phi công chết còn Philippines có 9 binh sĩ chết và 64 người bị thương. Tổn thất trực tiếp và gián tiếp của các bên trong cuộc chiến được chia ra như sau:

Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam

  • 849.018 liệt sĩ (khoảng 1/3 chết bởi những nguyên nhân phi chiến đấu như bệnh tật, tai nạn, kiệt sức,...). Theo thống kê của ngành chính sách quân đội - Cục chính sách - Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng thì đến năm 2012, Việt Nam có 1.146.250 liệt sĩ, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong chiến tranh Việt Nam.

Cần lưu ý, số binh sỹ thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng trong chiến đấu, mà còn bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt sức,... Và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà còn gồm bộ phận không tham gia chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận,...

Về số thương binh, đến năm 2013 cả nước có 781.021 thương binh và người hưởng chính sách như thương binh, trong đó khoảng 550.000 - 600.000 là thương binh trong chiến tranh.

Tính tới năm 2012, Việt Nam có 9.637 công trình ghi công liệt sĩ trên cả nước (nghĩa trang, đài tưởng niệm, đền thờ). Tỉnh có nhiều liệt sĩ nhất Việt Nam là Quảng Nam với 65.000 liệt sĩ (ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh). Huyện có nhiều liệt sỹ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (cũng thuộc tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sĩ.

Từ tháng 12/1994 đến hết năm 2001, Việt Nam đã phong tặng hoặc truy tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho 44.253 bà mẹ có chồng, con hy sinh trong chiến tranh. Một số Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu như mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam có chồng, 9 con đẻ, 1 con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; Mẹ Trần Thị Mít ở Quảng Trị có chồng, 6 con đẻ, 1 con dâu và 1 cháu nội là liệt sĩ; Mẹ Lê Thị Tự ở Quảng Nam có 9 con là liệt sĩ; Mẹ Phạm Thị Ngư ở Bình Thuận, mẹ Nguyễn Thị Rành ở huyện Củ Chi đều có 8 con là liệt sĩ, bản thân 2 mẹ cũng là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Số lượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng chia theo khu vực như sau: Miền Bắc: 15.033 mẹ. Miền Nam: 29.220 mẹ. *Tỉnh Quảng Nam là tỉnh có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.658 mẹ.

Nhờ các hoạt động quy tập mộ liệt sĩ, đến năm 2012, Việt Nam đã quy tập được hơn 937.000 hài cốt liệt sĩ, trong đó tổng số mộ liệt sĩ trong các nghĩa trang liệt sĩ là 780.522 mộ; tổng số mộ liệt sĩ gia đình quản lý là 156.904 mộ. Số địa phương còn nhiều mộ liệt sĩ chưa được quy tập là 18 tỉnh, là những địa bàn chiến tranh ác liệt. Tính đến tháng 7/2014, sau 20 năm liên tục tiến hành các cuộc tìm kiếm, Việt Nam đã tìm thêm được gần 90.000 hài cốt liệt sĩ, song vẫn còn khoảng 214.000 liệt sĩ chưa tìm được hài cốt. Nhiệm vụ tìm kiếm số hài cốt còn lại là hết sức khó khăn, phức tạp do địa hình, địa vật tại nơi chôn cất có nhiều thay đổi, đặc biệt là thông tin trong giấy báo tử, hồ sơ danh sách liệt sĩ được ghi theo ký hiệu, phiên hiệu, mật danh riêng của đơn vị để giữ bí mật. Thực tế tổng kết số liệu toàn cuộc chiến, thương vong của 2 bên khá tương đương (tuy rằng tỉ lệ tử vong của lính Mỹ và đồng minh thấp hơn do được hỗ trợ quân y tốt hơn).

Một tỉ lệ khá lớn số binh sĩ thiệt mạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam (có thể lên tới 40%) không phải trong chiến đấu mà bởi các nguyên nhân diễn ra trong hoàn cảnh chiến đấu khó khăn (như tai nạn, rắn cắn, thú dữ, bệnh tật, thiếu dinh dưỡng...), đặc biệt với những đoàn quân hành quân qua Đường mòn Hồ Chí Minh. Tính trung bình, trong giai đoạn nửa đầu (trước 1968), khi quân đội Mỹ đánh phá ác liệt và hệ thống quân y viện chưa phổ biến, cứ 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Nam chiến đấu thì chỉ 5-6 người vào tới miền Nam, còn lại hầu hết bị ốm hoặc tử vong dọc đường do sốt rét, rắn cắn, kiệt sức hoặc tai nạn. Hiện Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn là nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất Việt Nam với hơn 1 vạn mộ, song cũng chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ so với con số thực tế bộ đội đã hy sinh khi hành quân trên tuyến đường này.

Con số bị thương cũng khó xác định bởi nhiều chiến binh bị thương nhiều lần, nhiều người khác lại không bị thương do bom đạn mà bị mất sức chiến đấu do bệnh tật và khó lần tìm bằng cách xem sổ sách lưu giữ, nhất là đối với lực lượng du kích ở miền Nam. Hơn nữa việc cấp cứu y tế khó khăn và thiếu thốn thuốc men cho lực lượng du kích đồng nghĩa với tỷ lệ chết của thương binh cao hơn nhiều so với của lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh ở miền Nam (thông thường cứ 2 lính quân Giải phóng bị thương thì có 1 chết vì không đủ phương tiện cứu chữa, trong khi cứ 6 lính Mỹ và đồng minh bị thương thì mới có 1 chết do có hệ thống quân y trang bị đầy đủ).

Hoa Kỳ

  • Khoảng 58.200 tử trận và chết vì lý do khác.
  • Hơn 304.000 bị thương. Trong đó 153.303 bị thương nặng hoặc tàn phế.
  • 1.584 - 1.948 mất tích.

Mỹ chịu tổng thương vong là 362.000, chỉ kém một chút so với Chiến tranh Thái Bình Dương (409.000 thương vong), do Chiến tranh Thái Bình Dương khốc liệt hơn nhiều.Tuy nhiên, tỷ lệ lính Mỹ thiệt mạng được so với các cuộc chiến trước được giảm xuống khá thấp. Tại Việt Nam, lần đầu tiên Hoa Kỳ trang bị rộng rãi các phương tiện cơ giới như xe bọc thép và nhất là trực thăng. Điều này cho phép quân Mỹ khi bị thương nặng có thể được vận chuyển đến trạm phẫu thuật rất nhanh chóng (chỉ dưới 15 phút), cho phép hạn chế tỉ lệ tử vong của thương binh xuống đáng kể. Nếu như trong Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên, trung bình cứ 3 lính Mỹ bị thương thì có 1 chết thì tỉ lệ này ở Việt Nam là 6 lính Mỹ bị thương mới có 1 chết (tức giảm 1 nửa số lính thiệt mạng so với trước).

Thương vong của lính Mỹ chia theo nguyên nhân: 51% số tử vong và 16% số bị thương là do các loại súng bộ binh như AK-47, SKS... 36% số tử vong và 65% số bị thương là do mảnh văng từ đạn pháo binh, súng cối, lựu đạn. 11% số tử vong và 15% số bị thương là do các loại bẫy treo và mìn. 2% số bị thương được gây ra bởi các loại bẫy như hầm chông, cọc nhọn,... *2% số tử vong và 2% số bị thương được gây ra bởi các phương tiện khác.

Bên cạnh những tổn thất về sinh mạng về thể xác, lính Mỹ còn phải chịu những mất mát nặng nề về tinh thần. Hàng trăm ngàn lính Mỹ khi về nước đã mắc nhiều chứng rối loạn tâm thần do bị chấn thương tâm lý bởi những nỗi khiếp sợ họ gặp ở Việt Nam (thường được người Mỹ gọi là Hội chứng Việt Nam); khoảng 200.000 lính Mỹ nghiện ma túy trong những ngày ở Việt Nam. Thêm vào đó, hàng trăm ngàn lính Mỹ đã bị nhiễm chất độc màu da cam, khiến sức khỏe của họ dần hao mòn và con cháu mà họ sinh ra bị mắc nhiều chứng dị tật bẩm sinh khác nhau.

Tổn thất đầu tiên và cuối cùng của Hoa Kỳ

*Dân sự: *6/5/1954 - James 'Earthquake McGoon' McGovern và phi công phụ Wallace Buford chết tại Lào (bị pháo cao xạ của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắn rơi khi đang thả dù cho quân đội Pháp trong trận Điện Biên Phủ). Quân sự: **12–15/5/1975 - 41 quân nhân chết và 41 người khác bị thương trong Sự kiện Mayaguez tại Campuchia Dân chủ.

Tù binh chiến tranh

*Tù binh chiến tranh đầu tiên: 26/12/1961 - George F. Fryett là tù binh đầu tiên bị bắt và được phóng thích vào tháng 6/1962. *Tù binh chiến tranh cuối cùng: *27/1/1973 - Phillip A. Kientzler là tù binh cuối cùng bị bắt và được phóng thích vào ngày 27/3/1973. Tù binh chiến tranh bị giam giữ lâu nhất: 8 năm, 355 ngày - Floyd James Thompson bị bắt ngày 26/3/1964 và được phóng thích ngày 16/3/1973. Chỉ thiếu 10 ngày nữa là đủ 9 năm làm tù binh chiến tranh, ông bị bắt giữ làm tù binh lâu nhất trong Chiến tranh Việt Nam cũng như là tù binh bị bắt giữ lâu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

Việt Nam Cộng hòa

Quân lực Việt Nam Cộng hòa:

  • ~310.000 tử trận hoặc mất tích.
  • ~1.170.000 bị thương.

Con số 220.357 tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, tính từ năm 1965 đến 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng 300.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 313.000. Cộng thêm con số tử trận trong các năm 1956-1959 và năm 1975 thì số lính Việt Nam Cộng hòa tử trận ước tính là vào khoảng 310.000 người.

Từ năm 1965-1972, ước tính có khoảng 840.000 binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã đào ngũ. Giữa tháng 4-12/1974, có 176.000 lính đào ngũ. Số lượng lính đào ngũ không được tính vào con số thương vong.

Hàn Quốc

  • 4.407 - 5.099 tử trận.
  • 10.962 - 17.060 bị thương. *64 bị thương.

Thái Lan

*351 tử trận.

  • 17 bị bắt làm tù binh.

Campuchia

*70.000 dân thường chết.

Lào

  • ~30.000 quân Hoàng gia chết.
  • ~50.000 dân thường chết.

Tổn thất dân sự

  • Khoảng 900.000-4.000.000 dân thường chết, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3/4/1995, 2 triệu thường dân tại miền Bắc và 2 triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa năm 1954-1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.
  • Khoảng 3.000.000 bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam.
  • Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất: :- Gần 2 triệu thường dân chết. :- Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời. :- Khoảng 2 triệu người (bao gồm cả quân nhân) bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại.

Nick Turse, trong cuốn sách "Giết mọi thứ di động", lập luận rằng: "... việc không ngừng tìm kiếm nhiều hơn số xác chết, việc sử dụng lan tràn vùng tự do bắn phá, thường dân có thể bị xem là du kích, và thái độ khinh miệt phổ biến dành cho thường dân Việt Nam đã dẫn đến thương vong lớn và tội ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ. Một ví dụ là Chiến dịch Speedy Express, được mô tả bởi John Paul Vann, là 1 vụ thảm sát còn ghê gớm gấp nhiều lần Thảm sát Mỹ Lai". Cụ thể:__

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|phải|220x220px|SP4 Ruediger Richter ([[Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung
**Tranh cãi về cách xác định thương vong bằng đếm xác trong chiến tranh Việt Nam** () là một phương pháp của quân đội Mỹ và Đồng minh sử dụng nhằm xác định thương vong
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
Chiến thuật **trực thăng vận trong Chiến tranh Việt Nam** thường được biết đến với những tên gọi khác là **Chiến thuật Đại bàng bay** hay **Hổ bay, Chim ưng, Kẻ bình định, Lực lượng
Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử nhân loại vào thời điểm nó diễn ra. Những quốc gia có sự can thiệp sâu rộng như Hoa
**Đình chỉ chiến tranh Việt Nam** (tiếng Anh: _Moratorium to End the War in Vietnam_) là một thuật ngữ ám chỉ một loạt các cuộc biểu tình và tuyên truyền quy mô lớn trên khắp
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại, giai đoạn này
**Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1960-1965** là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Giai đoạn 1960-1965 trong lịch sử Miền Nam Việt Nam là một
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Việt Nam hóa chiến tranh** (tiếng Anh: _Vietnamization_) hay **Đông Dương hóa chiến tranh** là chiến lược của Chính phủ Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Richard Nixon trong Chiến tranh Việt Nam, được áp
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Công nghệ** đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định kết quả của chiến tranh thế giới thứ II. Phần lớn của nó đã được phát triển trong những năm giữa cuộc chiến
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, **Những vụ tấn công vào đô thị Miền Nam trong chiến tranh Việt Nam** chủ yếu được thực hiện bởi các lực lượng đặc công và du kích
**Việt Nam Dân chủ Cộng hòa** (**VNDCCH**), cũng được gọi là **Bắc Việt** (), là một nhà nước ở Đông Nam Á tồn tại từ năm 1945 đến năm 1976. Là một thành viên Khối
**Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh** (War Remnants Museum) là một bảo tàng vì hòa bình ở số 28 đường Võ Văn Tần, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Bảo
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
**Tôn Thất Thiện** (22 tháng 9 năm 1924 – 3 tháng 10 năm 2014) là một nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam thời hậu Thế chiến II. Ông là một nhân vật đặc biệt
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Chiến tranh nhân dân** là chiến lược quân sự tại Việt Nam để chỉ chung các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc do nhân dân Việt Nam tiến hành
**Chiến tranh biên giới 1979**, hay thường được gọi là **Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979**, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
thumb|upright|Biểu ngữ kêu gọi người Việt Nam ở nước ngoài tham gia xây dựng đất nước **Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam** là một khái niệm để chỉ sự hòa giải
**Chiến dịch Xuân – Hè 1972**, còn được biết đến với tên gọi **Mùa hè đỏ lửa** (theo cách gọi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa), hoặc **Easter Offensive** ("Chiến dịch Lễ Phục Sinh";
## Thập niên 1940 ### 1945 *Hội nghị Yalta *Hội nghị Potsdam ### 1946 * Tháng 1: Nội chiến Trung Quốc tái diễn giữa hai thế lực của Đảng Cộng sản và Quốc Dân Đảng.
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
**Đảng Cộng sản Việt Nam** là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
**Chiến dịch Lam Sơn 719** hay **Cuộc Hành quân Hạ Lào** (cách gọi của Việt Nam Cộng hòa) hay **Chiến dịch đường 9 - Nam Lào** (cách gọi của Chính phủ Cách mạng lâm thời
**Chiến dịch Trị Thiên** là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện vào năm 1972. Đây là một phần trong Chiến dịch Xuân hè
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Phong trào kết nghĩa Bắc – Nam** là một phong trào thi đua của một số tỉnh, thành phố Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Khởi động vào năm 1960, phong trào
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
**Học tập cải tạo tại Việt Nam** là tên gọi hình thức giam giữ mà chính quyền Việt Nam thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại
phải|nhỏ|300x300px|Hổ phân bố ở Việt Nam là [[Hổ Đông Dương, hiện loài này đang thuộc nhóm nguy cấp]] **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
nhỏ|175|phải|Một nhóm người vượt biển trên một con thuyền nhỏ Bà mẹ và 3 đứa con được đưa lên tàu chở dầu Wabash **Thuyền nhân Việt Nam** là hiện tượng gần một triệu người, vượt
Trang bìa cuốn "Huấn thị điều hành căn bản Kế hoạch Phụng Hoàng" Tập số 3, bản kín (mật) số hiệu 2211 **Chiến dịch/Kế hoạch/Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng** (tiếng Anh: _Phoenix Program_) (1968-1975) là
**Chiến tranh Việt – Chiêm (1367–1396)** là một cuộc chiến giữa nước Đại Việt thời hậu kỳ nhà Trần và nước Chiêm Thành do Chế Bồng Nga (Po Binasour) (1360–1390) lãnh đạo. Vào những năm
**Chiến dịch Nguyễn Huệ** là chiến dịch quân sự do Quân Giải phóng Miền Nam (QGP) tiến hành năm 1972, trong Chiến tranh Việt Nam, tại miền Đông Nam Bộ. Đây là một trong ba
**Chiến dịch Attleboro** là một chiến dịch của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam nhằm vào chiến khu Dương Minh Châu của Mặt trận Dân
Đây là danh sách **các cuộc chiến tranh liên quan Việt Nam** bao gồm có sự tham gia của Việt Nam hoặc xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Trong danh sách này, ngoài những
**Chiến tranh Đại liên minh** (1688-1697) - thường được gọi là **chiến tranh chín năm**, cuộc **chiến tranh Kế vị Palatine**, hoặc **chiến tranh của Liên minh Augsburg** - là một cuộc chiến lớn cuối
[[Kim Vân Kiều là tác phẩm được thể hiện dưới hình thức mạn họa nhiều nhất xưa nay tại Việt Nam và chưa có dấu hiệu ngưng lại.]] **Truyện tranh Việt Nam** () là thuật
**Trận Cửa Việt** là một trận đánh trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973, khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) thực