Trần Tử Bình (1907-1967) là một trong những vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà . Ông là người lãnh đạo phong trào công nhân cao su Phú Riềng 1930; Một trong những cốt cán của Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám ông đã được bổ nhiệm vào nhiều chức vụ của quân đội và Nhà nước như Phó giám đốc - chính ủy Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946), Phó Bí thư Quân Ủy Trung ương (1947), Chính ủy trường Lục quân tại Trung Quốc (1950-1956), Tổng Thanh tra Quân đội kiêm Phó Tổng thanh tra Chính phủ (1956-1958), Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1959-1967). Huân chương Sao Vàng (2008).
Tiểu sử
Trần Tử Bình tên thật là Phạm Văn Phu, sinh năm 1907, trong một gia đình nông dân nghèo theo đạo Công giáo, tại xã Tiêu Động, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Biệt danh khi hoạt động Trần Tử Bình của ông có nghĩa "sống phong trần, lãng tử, dám xả thân vì chính nghĩa, bình đẳng"
Phong trào Phú Riềng Đỏ 1930
Vì tham gia phong trào yêu nước, vận động giáo sinh ở Chủng viện Hoàng Nguyên (Hà Đông) để tang cụ Phan Chu Trinh nên cuối năm 1926 ông bị đuổi học. Năm 1927, được Tống Văn Trân giác ngộ, ông đã ký hợp đồng vào Nam Bộ làm phu đồn điền cao su Phú Riềng.
Tại Phú Riềng, ông được nhà cách mạng Ngô Gia Tự giác ngộ, kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Tháng 10 năm 1929, là đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng tại chi bộ Phú Riềng.
Cuối năm 1929, thay Nguyễn Xuân Cừ làm bí thư chi bộ. Đầu năm 1930, chi bộ lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi quyền sống của 5.000 công nhân Phú Riềng, làm nên phong trào "Phú Riềng Đỏ" lịch sử. Sau đó, ông bị bắt, bị kết án 10 năm tù, bị đày ra Côn Đảo.
Thời kỳ tù Côn Đảo 1931-1936
Thời kỳ bị Pháp giam cầm tại Côn Đảo ông vẫn tiếp tục học tập lý luận cách mạng, chủ nghĩa Marx-Lenin và đấu tranh đòi độc lập cho Việt Nam từ trong tù. Cũng trong quãng thời gian này ông đã kết thân với các nhà cách mạng cộng sản khác như: Tôn Đức Thắng, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Trần Xuân Độ, Nguyễn Văn Phát, v.v. đây là lứa cán bộ cốt cán đầu tiên của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1936, do ảnh hưởng của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền thực dân phải thả ông về đất liền và quản thúc ông ở quê nhà.
Thời kỳ hoạt động bí mật 1936-1945
Sau khi được trả tự do ông quay trở về Hà Nam và làm thầy ký ở phố huyện Bình Lục, nhưng vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng. Thời kỳ này ông đã lần lựơt giữ các chức vụ khác nhau trong Đảng bộ tỉnh Hà Nam như Bí thư chi bộ, Bí thư Huyện ủy Bình Lục và Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam.
Năm 1940, ông được bầu là Uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ và trực tiếp phụ trách Bí thư Khu uỷ khu C (Liên tỉnh: Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình) vào 1940, 1943; rồi năm 1941 - phụ trách Bí thư Khu uỷ khu D (Liên tỉnh: Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang).
Ngày 24 tháng 12 năm 1943, ông bị bắt ở Thái Bình. Đầu năm 1944, sau khi vượt ngục ở nhà tù Hà Nam bất thành ông bị chính quyền Pháp chuyển về nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), nơi được coi là nhà tù tuyệt đối an toàn của chế độ thực dân Pháp. Tại Hỏa Lò, ông được bầu làm Trưởng ban sinh hoạt, tổ chức hoạt động công khai của tù chính trị. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, lợi dụng sự kiện phát-xít Nhật hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương, việc quản lý nhà tù Hỏa Lò có sự thay thày đổi chủ, lộn xộn và bị lơi lỏng, Trần Tử Bình cùng các tù chính trị cộng sản đã tổ chức cuộc vượt ngục nổi tiếng trong lịch sử theo đường cống ngầm giải thoát cho gần 100 tù chính trị, trong số đó có các ông Đỗ Mười, Trần Đăng Ninh...
Sau khi thoát khỏi Hỏa Lò, ông trở về xây dựng Chiến khu Quang Trung hay Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh, Bộ chỉ huy đặt tại thôn Tâm Quy xã Hà Tân huyện Hà Trung tinh Thanh Hóa (là khu vực giáp ranh các tỉnh: Hòa Bình - Ninh Bình - Thanh Hóa).
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, với tư cách là Ủy viên Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, Ông đã trực tiếp tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa Hà Nội và một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ.
Thời kỳ phục vụ quân đội 1945-1959
Tháng 9 năm 1945, ông được giao nhiệm vụ Phó giám đốc, Chính trị ủy viên Trường Quân chính Việt Nam, (sau đổi tên là Trường Huấn luyện Cán bộ Việt Nam, rồi: Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn).
• Từ tháng 3/1947 đến 10/1950 ông được đề bạt làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Phụ trách công tác Cán bộ và Kiểm tra Đảng. Cuối 1947, ông cùng Lê Thiết Hùng chỉ huy mặt trận Sông Lô thắng lợi.
Tháng 1 năm 1948, ông được phong Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên (cùng đợt với các ông Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Nguyễn Bình và các Thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Trần Đại Nghĩa). Cùng thời gian đó ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng thanh tra Quân đội. Ông làm Công tố viên trong phiên Tòa án quân sự tối cao xét xử vụ án Trần Dụ Châu tham nhũng năm 1950.
• Từ 10/1950-1956, ông nhận nhiệm vụ Chính ủy viên Quân hiệu Lục quân Trần Quốc Tuấn (sau đổi tên là Trường Lục quân Việt Nam, kiêm Phó Tổng Thanh tra Quân đội
• Tháng 2 năm 1951, ông được cử làm đại biểu Quân đội dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II tại Việt Bắc.
• Thời gian 1956-1959, ông nhận nhiệm vụ Chánh Tổng Thanh tra Quân đội, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Việt Nam, tham gia củng cố và trong sạch hóa chính quyền thời hậu chiến.
• Năm 1960, ông được bầu làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng III, và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II và khóa III.
Thời kỳ công tác ngoại giao 1959-1967
• Năm 1959, ông được chuyển sang công tác tại Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc, kiêm đại sứ tại Mông Cổ thay cho ông Nguyễn Khang.
Trong 8 năm công tác tại Bắc Kinh, ông được bầu làm Trưởng Ngoại giao Đoàn Bắc Kinh. Ở giai đoạn này, mâu thuẫn trong quan hệ giữa hai nước đồng minh Trung Quốc và Liên Xô diễn ra rất căng thẳng, thậm chí đã có lúc Trung Quốc gây sức ép để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngả theo Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là hai đồng minh lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nguồn viện trợ của cả hai bên là vô cùng cần thiết cho cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, việc ngả về một bên sẽ làm mất lòng bên kia và gây ra tác hại to lớn về nguồn viện trợ, phương diện chính trị cũng như sức mạnh quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Được nhiều đồng nghiệp và cấp trên đánh giá cao về sự khôn ngoan, khéo léo, mềm dẻo, đại sứ Trần Tử Bình đã góp phần giải quyết mâu thuẫn Trung-Việt trong "vấn đề Liên Xô" và vận động được Trung Quốc tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, không để quan hệ Việt - Xô ảnh hưởng đến quan hệ Việt - Trung .
• Trong lần về nước họp đầu năm 1967, ông bị ốm nặng và từ trần tại Bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô, Hà Nội vào sáng ngày 11 tháng 2 năm 1967 (tức mùng ba Tết Đinh Mùi). Ông qua đời khi vừa tròn 60 tuổi .
Vinh danh và Khen thưởng
Khen thưởng
Huân chương Sao Vàng (2008)
Huân chương Hồ Chí Minh(2001)
Huân chương Độc lập hạng Nhất (1967)
Huân chương Quân công hạng Ba
*Huân chương Chiến thắnghạng Nhất
Vinh danh
Tên ông được gắn biển trên một số tuyến đường của các thành phố như:
- Phường Nghĩa Tân, Quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội.
- Huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh.
- Quận Cẩm Lệ - Thành phố Đà Nẵng
- Huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng.
- Thị xã Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương
- Thành phố Phủ Lý - Tỉnh Hà Nam
- Huyện Bình Lục, Tỉnh Hà Nam
- Phường Phước Long, TP Nha Trang, Khánh Hoà .
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Tử Bình** (1907-1967) là một trong những vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà . Ông là người lãnh đạo phong trào công nhân cao su Phú Riềng 1930;
phải|Bản đồ phân chia các khu vực chỉ huy quân sự của Hoa Kỳ thuộc Mặt trận Thái Bình Dương và [[Mặt trận Tây Nam Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai|Tây
nhỏ|Bắt giữ một lính Nga năm 1941. Chiến dịch Barbarossa. [[File:志愿军战俘跪在韩国士兵面前.jpg|thumb| Những người lính Trung Quốc bị quân đội Hàn Quốc bắt giữ trong Chiến tranh Triều Tiên năm 1951.]] **Tù binh** hay **POW** ()
**Lê Thụ** (chữ Hán giản thể: 梨树县) là một huyện ở địa cấp thị Tứ Bình, tỉnh Cát Lâm, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 3900 ki-lô-mét vuông, dân số
**Thiết Đông** () là một quận của thành phố Tứ Bình, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc. Quận có diện tích 572 km², dân số là khoảng 312.000 người. Mã bưu chính là 136001. Huyện Thiết Đông
**Huyện tự trị dân tộc Mãn Y Thông** (chữ Hán giản thể:伊通满族自治县) là một huyện tự trị ở địa cấp thị Tứ Bình, tỉnh Cát Lâm, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có
**Trần Thiêm Bình** (陳添平, ? – 1406) hoặc **Trần Thiên Bình** (陳天平) ## Cầu viện nhà Minh Đến năm 1400, nhân sự kiện Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần-Đại Việt, lập ra
**Trận Trường Bình** là trận đánh lớn giữa nước Tần và nước Triệu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc diễn ra từ năm 262 TCN đến năm 260 TCN. Cả hai bên đều
**Trận Tu Vũ** là một trận đánh để mở màn cho chiến dịch Hòa Bình (10/12/1951-25/2/1952) trong thời kì chiến tranh Đông Dương. Tên trận đánh lấy tên của địa điểm đã diễn ra nó,
**Trần Tự Khánh** (chữ Hán: 陳嗣慶;1175 – 3 tháng 1 năm 1224), là một chính trị gia, viên tướng trứ danh thời kỳ suy vong của triều đại nhà Lý, người lãnh đạo chính thống
**Đỗ Tử Bình** (杜子平, 1324-1381) là tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Sự nghiệp của ông gắn liền với cuộc chiến giữa Đại Việt và Chiêm Thành hồi nửa cuối thế kỷ 14.
Lễ hội đền Trần Lễ hội đền Trần **Đền Trần Thái Bình** là một quần thể di tích gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua
**Trần Tử Oai** (1921 - 2001) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông là một trong số ít sĩ quan được phong
**Trần Phương Bình** (sinh năm 1959 – 18 tháng 6 năm 2024) là giảng viên kinh tế và doanh nhân người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám
**Trần Văn Bình** (1922–1974), thường gọi là **Đẳng**, là một nhà cách mạng Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Đảng Cộng sản Việt Nam. ## Thân thế Trần Văn Bình sinh ngày 5
**Trần Tử Ngang** (chữ Hán: 陳子昂, 661-702), tự: **Bá Ngọc** (伯玉); là một viên quan dưới thời Võ Tắc Thiên và là nhà thơ Trung Quốc thời Sơ Đường. ## Tiểu sử **Trần Tử Ngang**
**Trần Quang Bình** (1946 – 11 tháng 2 năm 2021) là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo, Bộ Công an (Việt
**Trần Nguyên Bình** (21 tháng 11 năm 1951 - 18 tháng 3 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Trưởng ban Cơ yếu
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trận chiến đồi Edson**, hay còn gọi là **Trận chiến Đồi Máu**, là một trận đánh trên bộ trong Chiến dịch Guadalcanal thuộc Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai
**_Mặt trận Thái Bình Dương_** (tiếng Anh: **_The Pacific_**) là một bộ phim truyền hình ngắn tập về đề tài chiến tranh của Mỹ năm 2010 do HBO, Playtone và DreamWorks sản xuất, và được
**Trận Saipan** thuộc mặt trận Chiến tranh Thái Bình Dương của Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên đảo Saipan thuộc quần đảo Mariana ngày 15 tháng 6 năm 1944 – 9 tháng
**Trận Tulagi và Gavutu–Tanambogo** là một trận chiến diễn ra trên đất liền thuộc chiến dịch Thái Bình Dương, Thế chiến II, giữa lực lượng Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Đồng Minh (chủ
**Trần Dụ Châu** (1906-1950) là cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, cựu Cục trưởng Cục Quân nhu (tiền thân của Tổng cục Cung cấp, nay là Tổng cục Hậu cần, Quân đội
**Trận Phú Bình** (chữ Hán: 富平之战: _Phú Bình chi chiến_) là một trận chiến trong chiến tranh Kim-Tống trong lịch sử Trung Quốc năm 1130. Tại khu vực Phú Bình (nay là phía bắc Phú
**Hải chiến mũi Esperance** hay theo Nhật Bản gọi là **Savo-tō Oki Kaisen** (サボ島沖海戦, サボとうおきかいせん) diễn ra từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 10 năm 1942, là một trong nhiều trận hải chiến giữa
**Trần Tú Lệ** (sinh ngày 30 tháng 6 năm 1977) là một nữ diễn viên quốc tịch Malaysia thuộc hãng phim Mediacorp (Tân Truyền Môi Tư Nhân Hữu Hạn Công Ty) có trụ sở tại
**Trần Tu** (; 197 - 229), tự **Phụng Tiên** (奉先), là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Trần Tu quê ở huyện Tùng Tư, quận Lư
**Công ước Genève về đối xử nhân đạo đối với tù binh, hàng binh chiến tranh** là công ước về các quy tắc mà các nước đã phê chuẩn hoặc chưa phê chuẩn được khuyến
**Trần Văn Bỉnh** (1916–1977), tên thường gọi là **Bảy Thạng**, là một nhà cách mạng và chỉ huy quân sự Việt Nam. ## Cuộc đời Trần Văn Bỉnh sinh năm 1916 ở ấp Rạch Chèo,
**Mặt trận Balkan** (28 tháng 7 năm 1914 - 29 tháng 9 năm 1918) hay **Chiến trường Balkan** là một trong những mặt trận của Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra trên bán
**Trận vòng cung Kursk** (lịch sử Nga gọi là **_Chiến dịch phòng ngự - phản công Kursk_**) là một trong những chiến dịch lớn nhất trên chiến trường Xô-Đức trong Chiến tranh thế giới thứ
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Trận Poltava** (, ), còn gọi là **Trận đánh Pultowa**, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Thái Bình** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Bình cũ, Việt Nam. Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trận Gettysburg** là trận chiến đẫm máu nhất và được xem là chiến thắng lớn lao nhất của Liên bang miền Bắc của cuộc phân tranh Nam-Bắc, mà chí ít là một bước ngoặt trên
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Trận Leyte** trong chiến dịch Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc đổ bộ và chiến đấu giành sự kiểm soát Leyte thuộc quần đảo Philippines bởi lực lượng Mỹ
**Trận Kiev năm 1941** là trận công kích lớn thứ ba của Đức Quốc Xã vào mặt trận Tây Nam của Hồng quân Liên Xô (ngả qua Urkraina) trong Chiến dịch Barbarossa, sau Trận Dubno
**Trận Gaugamela** (tiếng Hy Lạp: _Γαυγάμηλα_) còn gọi là **trận Arbela**, diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 331 trước Công nguyên, giữa liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros III chỉ
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài