✨Trận Châlons

Trận Châlons

Trận Châlons, hay còn gọi là trận đồng bằng Catalaunian hoặc trận Campus Mauriacus, diễn ra vào năm 451 giữa một bên là người Hung cùng các đồng minh do vua Attila chỉ huy đối đầu với một liên minh do Đại tướng quân La Mã Flavius Aetius thống suất, bao gồm đế quốc Tây La Mã, người Visigoth cùng một số quốc gia khác của người German. Đây là trận đánh lớn cuối cùng của đế quốc Tây La Mã và cũng là trận thắng làm nên đỉnh cao vinh quang cho danh tướng Flavius Aetius - ông đã thể hiện bản lĩnh đẹp đẽ của một bậc đại anh hùng của thời đại trong chiến thắng và ít ra thì chiến thắng này của Aetius đã trở nên một trong những trận chiến tiêu biểu nhất của thời kỳ Trung Cổ. Có lẽ, chiến thắng quyết định của Aetius trong trận này không những bảo vệ được nền văn minh La Mã, Vua Visigoth là Theodoric I đã hy sinh trong chiến đấu. Nhiều huyền thoại có sức hút lâu dài về trận chiến khốc liệt này, chẳng hạn như chuyện vong hồn các tử sĩ đánh nhau ác liệt trong khói bụi trong một thời gian lâu sau khi Attila thua trận Nhà vua Merovech của người Frank, vốn dĩ đã cùng san sẻ chiến thắng với Aetius, bắt đầu xưng hùng xưng bá kể từ sau trận đánh..

Các tác giả đương thời khác cung cấp những động cơ khác. Honoria, nguyên là một người chị gái rắc rối của Hoàng đế Valentinianus III, lúc đó đang bị giam lỏng và hứa gả cho một thành viên Viện nguyên lão. Năm 450, bà đã gửi một bức thư cho vua Hung yêu cầu sự giúp đỡ của Attila giải thoát cho bà khỏi tình trạng giam cầm. Đáp lại bà sẽ kết hôn với ông và dâng tặng một nửa đế chế như của hồi môn. Attila yêu cầu Honoria sẽ được đưa tới cùng với của hồi môn. Valentinianus III từ chối những yêu cầu này, và Attila sử dụng nó như một cái cớ để đem một lực lượng lớn tiến quân sang phía tây, phát động một chiến dịch tàn phá xứ Gaul. Ban đầu, với tư cách là vị "cứu tinh" của Công chúa Honoria, Attila phân vân không biết nên tiến đánh kinh thành La Mã hay là Constantinopolis, cũng giống như vua Alaric I của người Goth trước thời ông. Và cuối cùng, ông đã quyết định tấn công La Mã, nhưng trước đó phải thâu được xứ Gaul. Lupus, giám mục của Troyes, cũng được ghi nhận là đã bảo vệ thành phố của mình bằng cách gặp trực tiếp Attila. Theo nhà chép sử Prosper xứ Gaul, sau khi Attila băng qua sông Rhine, nhiều thành phố tại Gaul đã phải hứng chịu sự tàn phá ghê gớm nhất của ông. Tuy nhiên, dân trong thành Aurelianum đã đóng kín cổng thành trước những kẻ xâm lược. Attila bắt đầu vây hãm thành phố, trong lúc chờ Sangiban thực hiện lời hứa. Cuộc vây hãm cũng được xác nhận bởi những tài liệu của Vita S. Anianus và Gregory thành Tours, mặc dù họ không nhắc đến tên của Sangiban.

Trận chiến

nhỏ|Con đường tiến quân của Attila vào Gaul phải|Sơ đồ cuộc chiến Sau khi nắm được tình hình, Đại tướng quân Flavius Aetius mau chóng đưa đại quân từ Ý tới xứ Gaul. Aetius cố gắng thuyết phục vua Theodoric I của người Visigoth tham gia cùng mình. Vua Visigoth nghĩ rằng lực lượng của Aetius là không đủ, và dự định sẽ chờ tới lúc người Hung tới đất mình rồi mới chiến đấu với họ. Aetius xoay sang một người rất có tiếng nói là Avitus để nhờ giúp đỡ. Avitus không những thuyết phục được Theodoric I mà còn lôi kéo thêm được một số man tộc khác ở xứ Gaul cùng tham gia. Liên quân này tiến về Aurelianum và tới nơi vào ngày 14 tháng 6.

Theo tác giả Vita S. Anianus, họ chỉ tới Aurelianum vừa kịp lúc, khi đó quân của Attila đã xâm nhập được vào tường thành. Lúc này người Hung đã biết về việc quân địch đang kéo tới. Họ đã sắp chiếm được thành, nhưng đóng quân lại tại thành phố này cũng có nghĩa là sẽ bị vây hãm bên trong thành (đó là một điều bất lợi, vì người Hung quen với việc vây thành hơn là bị vây trong thành). Vì vậy mà họ đã nhổ trại và rút quân, hẳn nhiên là để tìm một vị trí thuận lợi để giao chiến. Theodoric và Aetius bám theo sát nút, và hai đội quân cuối cùng đã giáp mặt tại những cánh đồng Catalaunian vào ngày 20 tháng 6. Ngày này được sử gia J.B. Bury nêu ra và nhiều người chấp nhận, mặc dù một số tin rằng đó là ngày 20 tháng 9.

Đêm trước trận chiến, một đội quân người Frank thuộc phe La Mã đã đụng độ một nhóm người Gepid trung thành với Attila. Jordanes ghi nhận 15.000 quân mỗi bên đã tử trận, nhưng con số này chưa được xác thực.

Theo phong tục người Hung, sáng sớm hôm đó, Attila lệnh cho các thầy pháp của mình dùng những bộ lòng để tiên đoán kết quả trận đánh. Họ tiên đoán một thảm họa sẽ xảy ra cho người Hung và một kẻ chỉ huy của phe địch sẽ tử trận. Sẵn sàng đánh liều với tính mạng mình và hy vọng rằng Aetius sẽ là kẻ phải chết, Attila cuối cùng cũng ra lệnh xung trận, nhưng trì hoãn tới giờ thứ 9, để việc mặt trời lặn có thể giúp quân đội của ông rút lui, nếu bại trận.

Theo Jordanes, đồng bằng Catalaunian nhô lên về một phía theo một sườn dốc, tới một dãy đồi. Địa hình này là trung tâm của trận chiến. Người Hung chiếm bên phải còn liên quân La Mã chiếm bên trái dãy đồi, còn phần đỉnh đồi chưa thuộc về ai. Cũng theo Jordanes, quân Visigoth đóng ở cánh phải, quân La Mã ở cánh trái, còn Sangiban với lòng trung thành vẫn trong vòng nghi vấn, cùng người Alan của ông ta, bị kẹp ở trung tâm của liên quân. Bên phía quân Hung, Attila đích thân chỉ huy ở trung tâm, còn người Ostrogoth ở cánh trái và người Gepid ở cánh phải.

Khởi đầu cuộc chiến, quân Visigoth đã chiếm được ngọn đồi nhỏ chiến lược. Attila đã cho một số binh lính từ trung tâm qua hỗ trợ người Ostrogoth, còn bản thân ông mang quân tiến đánh trung tâm của liên quân. Khi quân Hung tiến đánh vị trí ở giữa mang tính chất quyết định, họ đã bị đồng minh Alan của La Mã chặn lại. Aetius cũng từ từ đẩy lui cánh của người Gepid. Ở bên cánh kia, quân Visigoth lúc này đã đánh bật cánh của Ostrogoth. Các chiến binh rút chạy hỗn loạn về chỗ đóng quân, làm rối đội hình của Attila. Attila cố gắng tập hợp lại lực lượng và giữ vị trí, nhưng quân Visigoth xoay sang tấn công chính ông, khi mà lực lượng của Attila đã bị phân tán. Khi đang dẫn đầu người của mình truy đuổi quân địch hỗn loạn, Theodoric đã bất ngờ tử trận mà chẳng ai hay biết. Sử gia Jordanes cho rằng Theodoric đã bị ngã ngựa và bị chính người của mình từ phía sau tràn lên giẫm chết, nhưng ông cũng kể một câu chuyện khác rằng Theodoric có thể đã bị giết bởi Andag người Ostrogoth, thuộc phe Attila (nhưng nên nhớ Jordanes là cận thần dưới quyền con của Andag là Gunthigis). Sách khác thì viết rằng Theodoric I bị trúng tên của địch, và bị chết khi lực lượng Kỵ binh của liên quân La Mã - Giéc-man ồ ạt tấn công.

Đến đây, đội tả quân của Attila vẫn chưa bị đánh bại, nhưng đội hữu quân của ông đã bị đánh tan tác còn trung quân thì phải lui về.

Khi Attila bị vây khốn trong trại, người Visigoth đi tìm vị vua bị mất tích cùng con trai của ông là Thorismund. Sau một thời gian dài tìm kiếm, họ thấy xác Theodoric nằm dưới một đống xác chết khác, và đã tiễn đưa ông với những bài ca anh hùng ngay trước mắt kẻ thù. Sau khi biết cha mình đã chết, Thorismund muốn đánh thẳng vào trại của Attila. Quân Visigoth căm giận tột độ, họ đồng loạt kêu gào lên "Hãy báo thù cho Đức Vua !" khi một người lính hô lên rằng "Bọn giặc đã sát hại Đức Vua của chúng ta". Quân Hung và quân Ostrogoth không thể nào cầm chặn được họ. Thế nhưng, Đại tướng quân Aetius đã ngăn Thorismund lại. Theo Jordanes, Aetius sợ rằng nếu người Hung bị tiêu diệt hoàn toàn, người Visigoth của Thorismund sẽ phá vỡ liên minh với La Mã và trở thành một đối thủ đáng gờm khác. Ông không muốn Thorismund - vốn là một vị vua giỏi về quân sự, sẽ là một Alaric I khác đối với Đế quốc Tây La Mã. Theo biên niên sử của Hydatius, Attila "nổi cáu lên vì chiến bại khó thể đoán trước được của ông ta tại Gaul".

Bên phía Attila thì Jordanes nêu ra các đồng minh bao gồm người Gepid dưới quyền vua Ardaric, người Ostrogoth do anh em Valamir, Theodemir (cha của Theodoric Đại đế sau này) lãnh đạo, và người Widimer, một nhánh của người Amali.

Một số sử gia khác nêu ra những danh sách dài hơn. Sử gia E.A. Thompson thì giữ quan điểm cho rằng người Burgundy đã ngả theo phe Attila. Mặc dù vậy, con số chính xác về số lượng người đã tham gia cuộc chiến thì đến nay vẫn chỉ là phỏng đoán. Các sử gia như Jordanes và Hydatius đưa ra những con số mà các sử gia sau này cho là quá cao. A.H.M. Jones đưa ra con số tổng binh lính của hai bên là dưới 100.000, không tính tới những người hầu và tùy tùng đi theo.

Dầu sao đi chăng nữa, quân Giéc-man chiếm số đông trong cả hai đoàn binh. Phần lớn quân tinh nhuệ La Mã là người gốc Giéc-man, và Aetius đã tuyển mộ nhiều người rợ Giéc-man vào quân ngũ. Ông đã nỗ lực hết mình để tuyển mộ cả quân Visigoth hùng mạnh do vua Theodoric I lãnh đạo. Achille Peigné-Delacourt (1797–1881) khẳng định một bộ hài cốt tìm thấy ở Pouan-les-Vallées (Aube), một làng nằm ở bờ nam sông Aube, là của vua Theodoric I, nhưng các sử gia thế kỷ 20 đã nghi ngờ chuyện này.

Tầm quan trọng trong lịch sử

Trận đánh Châlons, là chiến thắng của Đại tướng quân Flavius Aetius, trở thành một trong những trận chiến lớn nhất của thời kỳ Trung Cổ, đã đánh lùi cuộc xâm lược của rợ Hung vào xứ Gaul. Arthur Ferrill thì cho rằng trận đánh này có ý nghĩa quan trọng vì nó là trận đánh quan trọng đầu tiên diễn ra giữa hai liên minh lớn chứ không phải chỉ là hai quốc gia.

Bàn đến uy danh đáng sợ của Attila, và tầm quan trọng của trận chiến, Gibbon cho rằng những gì viết về Attila là từ phe đối địch, vì vậy mà không có lý do gì để phóng đại nỗi kinh hoàng mà Attila gieo rắc cho đối phương và tầm quan trọng của trận Châlons trong việc chứng minh rằng Attila là một ông vua bất khả chiến bại (hiểu là: không có lý do gì để các sử gia La Mã nói quá và dựng chuyện lên rằng Aetius phải trải qua một trận đánh khốc liệt mới chặn được Attila, nếu thiên lệch mà muốn ca ngợi "phe mình" thì có thể đã viết rằng Aetius chiến thắng huy hoàng và dễ dàng rồi).

Theo tác giả Edward Creasy thì chiến thắng lẫy lừng của Aetius tại Châlons chính là khoảnh khắc huy hoàng cuối cùng của Đế quốc La Mã. Tuy nhiên, khác với những chiến tích khác của các Binh đoàn La Mã, thắng lợi này không mở ra một kỷ nguyên chinh phạt mới hay là ngăn ngừa quá trình suy yếu và sụp đổ của Đế quốc La Mã. Thực chất, nền văn minh La Mã đã hoàn thành sứ mệnh kế thừa tinh hoa văn hóa Hy Lạp cổ đại của mình. Song, chiến thắng ở Châlons lại định đoạt cho câu hỏi: Ai sẽ là người phân chia di sản đồ sộ của Đế quốc La Mã ? Xét về trận thắng, các chiến binh Visigoth của vua Theodoric I đã anh dũng chiến đấu và hy sinh trên chiến địa, cũng đóng góp lớn. Không những trận thắng cứu nguy được Đế quốc La Mã trong một thời gian, mà nó còn quyết định đến thời đại huy hoàng của người Giéc-man lấn át cả nền văn minh châu Âu. Ông cũng dẫn chứng rằng tới năm sau Attila vẫn đủ sức mạnh để dẫn quân trực tiếp vào Ý, và tới tận gần thành La Mã thì mới dừng lại quay về. Ngoài ra thì Bury cũng cho rằng nếu có thắng thì người Hung cũng không đủ sức thống trị lâu dài ở Tây Âu vì sức mạnh của họ chỉ xoay quanh một vị vua vĩ đại duy nhất. Một vài sử gia khác cũng có quan điểm tương tự.

Kết quả và danh tiếng của trận chiến

Người La Mã nói sau trận chiến: "Cadavera vero innumera," ("Thật sự là vô số xác chết!"). Tục truyền rằng tổng thương vong của hai bên bao gồm từ 162 nghìn cho tới 30 vạn chiến binh, dù con số này hẳn là phóng đại. Song, ít nhất thì nó cũng nêu lên sự hết sức đẫm máu của trận đánh này,

Theo Gibbon, việc vua Attila rút quân qua bên kia sông Rhine đã chứng tỏ chiến thắng lớn lao cuối cùng của Đế chế Tây La Mã. Chiến thắng vang dội này cũng làm cho tiếng tăm của Đại tướng quân Flavius Aetius - một danh nhân xuất sắc trong giai đoạn cuối của Đế quốc La Mã - trở nên bất hủ.

Một năm sau, Attila lại đòi Honoria và các vùng của Tây La Mã. Lần này ông nghĩ rằng đánh thẳng vào Ý sẽ hợp lý hơn. Vượt dãy Alps, Attila chinh phục Aquileia, Vicetia, Verona, Brixia, Bergomum, và Milano. Khi đã đến gần thành La Mã thì ông quay về, nguyên do của việc này có thể là do sự kết hợp giữa dịch bệnh đang hoành hành trong nội bộ quân Hung, cuộc đàm phán sáng suốt của Giáo hoàng Lêô I và việc quân Đông La Mã tấn công vùng đất của ông ta từ phía sau. Mối nguy hiểm từ người Hung chỉ hoàn toàn kết thúc sau cái chết của Attila vào năm 453. Tuy nhiên, sau chiến bại của Châlons thì sức tàn phá khủng khiếp của Attila vào thế giới văn minh đã giảm hơn hẳn. Về phần danh tướng Aetius, Hoàng đế La Mã Valentinianus III giết hại ông vào năm 454 để rồi một năm sau chính hoàng đế bị ám sát chết bởi những người ủng hộ viên tướng này. Hình như Aetius đã bị thất sủng do ông không truy sát quân Hung sau chiến thắng tại trận Châlons Damascius thì viết rằng chỉ có chỉ huy của hai bên cùng một vài binh sĩ là trở về an toàn, còn linh hồn của các tử sĩ vẫn tiếp tục hung hãn chiến đấu với nhau suốt nhiều ngày đêm sau đó, như thể họ đang còn sống. Bức tranh tuyệt đẹp "Trận chiến của người Hung" (Hunnenschlacht) của nhà họa sĩ Wilhelm von Kaulbach (người Đức) đã khắc họa rõ nét cảnh tượng này. Trong đó, cứ mỗi đêm, những chiến binh trận vong của hai phe trỗi dậy từ nấm mồ của họ. Ở nơi chiến địa hoang vu, họ giáp chiến với nhau trong mây mù, trong khi khắp vùng phải ớn lạnh trước những tiếng gào thét ghê rợn của họ. Đây là một trong những huyền thoại có sức hút lâu dài về trận chiến kinh hoàng này. Và trận chiến đã trở thành một trong những cuộc giao tranh khốc liệt nhất trong suốt bề dày lịch sử nhân loại.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Châlons**, hay còn gọi là **trận đồng bằng Catalaunian** hoặc **trận Campus Mauriacus**, diễn ra vào năm 451 giữa một bên là người Hung cùng các đồng minh do vua Attila chỉ huy đối
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
**Trận Sedan** là một trận chiến quan trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào 1 tháng 9 năm 1870 tại Sedan trên sông Meuse, miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ
**Trận Mars-la-Tour**, còn được gọi là **Trận Vionville**, **Trận Vionville–Mars-la-Tour** hay **trận Rezonville** theo tên các ngôi làng nằm trên đường Metz-Verdun Sau những thất bại mở màn của quân đội Pháp đầu tháng 8
**Trận Gravelotte** (theo cách gọi của người Đức) hay **Trận St. Privat** theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là **Trận Gravelotte-St. Privat**, là một trận đánh quyết định trong
**Trận Spicheren** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Forbach**), còn được đề cập với cái tên **Trận Spicheren-Forbach**, là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của cuộc Chiến
**Trận Solicinium** là một trận đánh đẫm máu giữa Quân đội La Mã và người Alemanni vào năm 367 hoặc 368. Hai năm sau khi các tướng của ông đè bẹp quân xâm lấn Alemanni
**Trận chiến Buzancy** là một cuộc giao tranh quy mô nhỏ trong cuộc tấn công vào Pháp của quân đội Đức trong các năm 1870 – 1871, đã giành chiến thắng trước Trung đoàn kỵ
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
**Trận Tours** (ngày 10 tháng 10 năm 732), còn được gọi là **trận Poitiers** (phát âm tiếng Việt: **Poachiê**), tiếng - _ma‘arakat Balâṭ ash-Shuhadâ_) là một trận chiến diễn ra ở một địa điểm giữa
**Trận Nuits Saint Georges** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Trong trận chiến này, Sư đoàn Baden của Đức do tướng Adolf von Glümer chỉ huy (thuộc Quân đoàn số XIV dưới
**Trận Beaumont**, và đánh bật quân đội Pháp về Mouzon. Quân Pháp chịu nhiều thiệt hại hơn quân Đức trong cuộc chiến này – vốn có tính quyết định hơn các trận thắng trước của
**Binh đoàn Châlons** () là một đạo quân của Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870. Được thành lập tại trại Châlons vào ngày 17 tháng 8 năm 1870, từ một phần của Binh
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871), hai tập đoàn quân Phổ gồm khoảng 120.000 quân dưới sự thống lĩnh của Thân vương Friedrich Karl **vây hãm** 180.000 quân Pháp do Thống chế François
**Theodoric I** (tiếng Goth: _Þiudareiks_; ; ; ? – 451), gọi theo tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý là _Teodorico_, là một vị vua German của người Visigoth trị vì từ năm
**Đế quốc Gallia** () là tên mà người nay đặt cho một quốc gia ly khai trong Đế quốc La Mã, tồn tại từ năm 260 đến năm 274. Nó khởi nguồn từ cuộc Khủng
Lãnh thổ của đế quốc Francia, 481–814 SCN. **Người Frank** (phát âm như "Phrăng", hay _gens Francorum_) hoặc **người Francia** là một liên minh các sắc tộc Germanic được ghi nhận sống ở hạ lưu
**Eparchius Avitus** (385 – 457) là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ ngày 9 tháng 7 năm 455 cho đến ngày 17 tháng 10 năm 456. Xuất thân từ giới quý tộc gốc
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Cuộc vây hãm Toul** là một hoạt động bao vây trong Chiến dịch chống Pháp của quân đội Phổ – Đức vào các năm 1870 – 1871,, tại Toul – một pháo đài nhỏ của
**Giao tranh tại Nouart** là một hoạt động quân sự cho chiến dịch nước Pháp của quân đội Phổ – Đức trong các năm 1870 – 1871, đã diễn ra vào ngày 29 tháng 8
**Paris** () là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn với New York
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
**_Rome: Total War: Barbarian Invasion_** (tạm dịch: _Rome: Chiến tranh tổng lực – Man tộc xâm lược_) là bản mở rộng đầu tiên của trò chơi máy tính thể loại chiến lược theo lượt và
phải|Bản đồ vương quốc Ostrogoth bao gồm Italia và vùng Balkan **Đông Goth** là một nhánh của người Goth (nhánh còn lại là Tây Goth), là một bộ tộc Đông Germanic đã đóng vai trò
Ngày **20 tháng 6** là ngày thứ 171 (172 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 194 ngày trong năm. ## Sự kiện *451 – Tướng Flavius Aetius chỉ huy quân Tây La Mã giành
## Tiền sử Khu vực Île-de-France có sự hiện diện của con người cách đây ít nhất 40 ngàn năm trước. Các công cụ lao động bằng đã được tìm thấy bên bờ sông Seine
**Flavius Placidius Valentinianus** (2 tháng 7, 419 – 16 tháng 3, 455), được biết đến với tên gọi là **Valentinianus III**, là Hoàng đế Tây La Mã trị vì từ năm 425 đến 455. ##
**Publius Licinius Cornelius Saloninus Valerianus** (242 – 260) là Hoàng đế La Mã vào năm 260. ## Tiểu sử Saloninus sinh vào khoảng năm 242. Cha của cậu sau là Hoàng đế Gallienus và mẹ
**Valamir** (khoảng 420 – 465) là một vị vua Ostrogoth tại vùng đất cổ xưa xứ Pannonia từ năm 447 cho đến khi ông qua đời. Dưới thời trị vì của mình, Valamir đã chiến
**Binh đoàn số 3** () là một biên chế đơn vị quân sự được thành lập trong thời gian ngắn trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được tạo thành từ các đơn vị quân đội của
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Binh đoàn sông Rhin** () là một đại đơn vị quân sự Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được thành lập ngay sau khi Pháp tuyên chiến với Phổ vào ngày 18 tháng 7
Trại của người Hung. **Người Hung** là một nhóm người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu
phải|nhỏ|Tướng Ludwig von Schlotheim **Carl Ludwig Freiherr von Schlotheim** (22 tháng 8 năm 1818 tại Uthleben – 7 tháng 4 năm 1889 tại Kassel) là một Thương tướng Kỵ binh trong quân đội Phổ, đã
**Chiến tranh Liên minh thứ Bảy** (), hay **Triều đại Một trăm ngày** ( ) là Liên minh cuối cùng trong loạt bảy Liên minh giữa một số cường quốc châu Âu, chống lại hoàng
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
**Douglas MacArthur** (26 tháng 1 năm 18805 tháng 4 năm 1964) là một nhà lãnh đạo quân sự người Mỹ, từng giữ chức Thống tướng lục quân Hoa Kỳ, cũng như là Thống chế của
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
phải|nhỏ|Tướng Wilhelm von Tümpling **Wilhelm Ludwig Karl Kurt Friedrich von Tümpling** (30 tháng 12 năm 1809 tại Pasewalk – 13 tháng 2 năm 1884 tại Talstein thuộc Jena) là một sĩ quan Phổ, đã được
:_Để biết về các nghĩa khác, xin xem Aurelianus (định hướng)._ **Lucius Domitius Aurelianus** (9 tháng 9 năm 214 hay 215 – tháng 9 hay tháng 10 năm 275), còn gọi là **Aurelian**, là Hoàng
**Hugo Ewald Graf von Kirchbach** (23 tháng 5 năm 1809 – 26 tháng 10 năm 1887) là một tướng lĩnh quân sự của Phổ, đã góp phần không nhỏ đến sự thành lập Đế quốc
**Bùi Hữu Nhơn** (1928 - 2022) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Viễn đông
**Sông Marne** là một con sông của Pháp. Nó là một nhánh của sông Seine và nối với sông Seine ở phía đông-nam Paris. Dài 525 km, Marne bắt nguồn từ cao nguyên Langres, thuộc Balesmes-sur-Marne,
**Attila** ( Sinh: 395 hoặc 406; Không rõ – 453), người châu Âu gọi ông là **Attila Rợ Hung**, và đặt biệt hiệu là "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời" (_fléau