✨Trận Gravelotte

Trận Gravelotte

Trận Gravelotte (theo cách gọi của người Đức) hay Trận St. Privat theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là Trận Gravelotte-St. Privat, là một trận đánh quyết định trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào ngày 18 tháng 8 năm 1870 giữa hai ngôi làng St. Privat la Montagne và Gravelotte ở miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke, các lực lượng Phổ-Bắc Đức gồm Tập đoàn quân số 1 dưới quyền tướng Karl Friedrich von Steinmetz và Tập đoàn quân số 2 dưới quyền Thân vương Friedrich Karl đã tấn công và buộc Tập đoàn quân Rhine chủ lực của Pháp dưới quyền Thống chế François Achille Bazaine phải rút chạy vào Metz. Mặc dù quân Đức bị hao tổn nhiều binh lực hơn quân Pháp, thắng lợi chiến lược của họ ở Gravelotte đã dẫn đến sự bao vây cô lập lực lượng của Bazaine ở Metz, qua đó chia cắt hoàn toàn hai tập đoàn quân chủ lực của Pháp và thúc đẩy sự thất bại hoàn toàn của đế chế Napoléon III trong cuộc chiến.

Moltke dự định dùng đại bác giã nhừ phòng tuyến quân Pháp, rồi bọc sườn quân Pháp quanh St. Privat và hợp vây toàn bộ chiến tuyến đối phương từ phía bắc sang phía nam. Mặc dù vậy, các thuộc cấp của ông đã phát động những đợt tấn công trực diện vào tuyến phòng ngự của Pháp trên các cao điểm chế ngự trận địa. Trận chiến bùng nổ trên một thế trận đảo ngược: quân Phổ dựa lưng về phía Paris trong khi quân Pháp dựa lưng về biên giới với Đức. Với lợi thế về súng trường Chassepot tối tân, mỗi trong số 17 sư đoàn quân Pháp đã bắn ra 4 vạn phát đạn chỉ trong vòng 1 phút và đốn ngã các đợt tấn công của địch. Số quân Phổ chết và bị thương lên tới khoảng 2 vạn người trong ngày hôm đó. Tuy nhiên, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến thuật phòng ngự của Pháp vốn đã ăn sâu vào tâm trí họ từ năm 1866, các tướng lĩnh Pháp từ chối phản công, ngay cả khi xác lính Phổ chất đầy dưới chân họ. Điều đó đem lại thời gian cho phía Phổ điều động pháo binh bịt kín các lỗ hổng trong trận tuyến của họ và mở đường cho viện binh tiếp chiến từ phía bắc. Cuối cùng, các trung đội bộ binh của tướng Moltke đã làm chủ được các cao điểm phía trên Metz và ép địch rút xuống pháo đài.

Cũng giống như trận Mars-la-Tour hai ngày trước, trận Gravelotte được quyết định bởi pháo binh Phổ. Sự nhạy bén của pháo binh Phổ cùng với sự thụ động của Bazaine đã góp phần cứu vãn các đợt tấn công thất bại của quân bộ binh Phổ. Trong khi phần lớn thương vong của quân Phổ gây ra bởi súng trường Pháp, phần lớn thương vong của quân Pháp là do đại bác hiệu Krupp gây nên.

Bối cảnh

Ngày 6 tháng 8 năm 1870, trong khi Tập đoàn quân số 3 Đức do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy đè bẹp bộ phận quân Pháp của Thống chế Mac-Mahon gồm Quân đoàn I và một sư đoàn thuộc Quân đoàn VII ở Frœschwiller-Wœrth về hướng nam, các thành phần thuộc Tập đoàn quân số 1 và 2 Đức đánh thắng Quân đoàn II Pháp do Frossard chỉ huy ở Spicheren-Forbach trên mạn bắc. Hai thất bại mở màn này đã giáng một đòn nặng nề vào tinh thần chiến đấu của Tập đoàn quân Rhine do Hoàng đế Napoléon III trực tiếp chỉ huy và dẫn đến sự chia cắt hai bộ phận quân Pháp. Trước tình hình đó, vào ngày 7 tháng 8 năm 1870, Napoléon sai 3 quân đoàn I, V, VII rút về Châlons-sur-Marne để thành lập một tập đoàn quân mới do MacMahon trực tiếp chỉ huy, trong khi 5 quân đoàn chủ lực Tập đoàn quân Rhine tập kết tại Metz, trước khi rút về thành cổ Verdun trên sông Meuse và đến Châlons để hội quân với MacMahon. 5 ngày sau, Napoléon trao quyền tổng chỉ huy Tập đoàn quân Rhine cho Thống chế Bazaine, nguyên Tư lệnh Quân đoàn III. Sau một tuần lễ thụ động, Bazaine bắt đầu rút quân qua sông Moselle để rời Metz đến Verdun vào ngày 14 tháng 8. Quyết định này dẫn đến trận Borny-Colombey, một trận đánh ác liệt trong đó không bên nào giành thắng lợi nhưng cuộc triệt thoái của Bazaine đã bị trì hoãn đáng kể. Hôm sau, nắm được tiến độ triệt thoái lề mề của quân Pháp, vua Wilhelm I sai Moltke điều Tập đoàn quân số 2 vượt sông Moselle rồi tiến về phía tây và lên phía bắc để khóa chặt con đường Metz-Verdun. Bất chấp sự chậm chạp của đối phương, Tư lệnh Tập đoàn quân số 2 đã ban bố các mệnh lệnh dựa trên giả thiết rằng quân tiền vệ của Bazaine đã gần đến sông Meuse.

Moltke hiểu rõ ý nghĩa của chiến thắng ngày 16 tháng 8. Theo ông, việc hai quân đoàn Đức đối mặt với toàn bộ lực lượng của Bazaine trong trận đánh này cho thấy tình hình thuận lợi để huy động đại bộ phận binh lực cô lập Bazaine khỏi nội địa Pháp: "Số quân địch đối mặt với Quân đoàn III càng nhiều thì thành công của ta sẽ càng lớn vào ngày mai, khi ta có thể triển khai các Quân đoàn X, III, IV, VIII, VII và cuối cùng là XII để chống nhau với nó". Mặc dù Đại tá Gustav von Stiehle, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân số 2, đề xuất cho các lực lượng còn lại của tập đoàn quân mình tiếp tục hành quân về sông Meuse theo dự định nguyên thủy của Bộ Chỉ huy Tập đoàn quân số 2, Moltke giờ đây nhận thấy sông Meuse không còn có tầm quan trọng và ông lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị bao vây xóa sổ quân chủ lực Pháp. Có hai phương án: hoặc là hợp vây quân của Bazaine ở vùng ngoại ô Metz rồi đẩy họ vào pháo đài và để đói họ trong đây, hoặc là đánh quân Pháp chạy về phía bắc tới Luxembourg, nơi họ sẽ bị giải giáp theo quy luật chiến tranh. Dựa trên hoạch định của Moltke, vào ngày 17 tháng 8, trong khi Steinmetz thúc chủ lực Tập đoàn quân số 1 qua sông Moselle, Friedrich Karl quay toàn bộ Tập đoàn quân số 2 về chiến trường ngày hôm trước.

Bố trí của quân Pháp

phải|thumb|Thống chế Bazaine, người đã lập nhiều công trạng cho nước Pháp trong các cuộc chiến tranh nước đó. Bazaine dành cả ngày 17 tháng 8 để triển khai cái được sử gia Hoa Kỳ Dennis Showalter gọi là "cứ điểm phòng ngự chiến thuật mạnh nhất trong chiến dịch". Trận tuyến phòng thủ của ông trải dọc theo một dải đất cao nằm ngoài Metz khoảng 1.6 km, kéo dài từ làng Saint-Privat phía bắc qua các làng Amanvillers và Gravelotte ở chính giữa, rồi xuống khu vực rừng rậm che phủ khe Mance, nơi có con suối chảy tới sông Moselle về hướng nam. Khe suối sâu Mance là một chiến ngại vật có tác dụng gây rối loạn các đội hình chặt chẽ của cánh trái quân Đức. Đồng thời, hệ thống cao điểm trên hàng cây đã tạo nên những khu vực bắn dài, chế ngự bởi các nông trang được gia cố St. Hubert, Leipzig, Moscou và Point du Jour nối liền với các chiến hào và hỏa điểm pháo binh của Pháp. Trong khi đó, phần lớn các khu vực ở trung tâm và bên phải (phía bắc) chiến tuyến chỉ dốc nhẹ và trống rỗng, tạo nên những khu vực bắn tuyệt vời cho súng trường nạp hậu tối tân Chassepot của Pháp.

Dưới sự chỉ huy của tướng Frossard, Quân đoàn II Pháp đóng giữ khu vực Mance. Các quân đoàn III (Le Bœuf) và IV (Ladmirault) đã triển khai lực lượng dọc theo cao điểm ở trung tâm, đồng thời xác lập tầm bắn và vùng bắn của mình. Nhiệm vụ trấn thủ cánh phải quân Pháp được giao cho Quân đoàn VI dưới quyền Thống chế Canrobert. Bazaine đã yêu cầu dàn quân đoàn này theo hình bậc thang theo hướng đông bắc để ngăn chặn sự hợp vây của địch, và Canrobert thiết lập vị trí phòng ngự chủ chốt của mình ở phía tây nam Saint-Privat.

Các đạo binh của Moltke sẽ trở thành mồi ngon cho quân phòng ngự Pháp nếu mọi thứ diễn ra như Bazaine định trước. Bazaine không hề đề ra kế hoạch về một cuộc phản công toàn lực nếu như quân Phổ bị đánh bại. Trong trường hợp quân ông bị thất trận, Bazaine sẽ rút vào pháo đài Metz và đợi chờ hoàng đế đưa quân tới cứu viện.

Không chỉ vậy, bộ binh Phổ đã rơi vào tầm đạn của một số khẩu mitrailleuse – loại súng được bí mật sản xuất từ năm 1866 với 25 nòng súng, vận hành bởi một vòng quay tay, có khả năng bắn ra 150 viên đạn một phút với tầm bắn 2.000 thước (1.829 m). Các khẩu mitrailleuse đã thảm sát lực lượng tấn công của Phổ, và phần nhiều trong con số thiệt hại to lớn của quân Phổ vào ngày 18 tháng 8 là do loại súng này gây nên. Nhưng ngoài trận Gravelotte-St. Privat ra, loại siêu vũ khí này không có nhiều ảnh hưởng đến cục diện của cuộc chiến. Mitrailleuse không phát huy được hiệu quả do binh lính không được huấn luyện sử dụng đầy đủ, được bố trí trong đội hình quá chật hẹp, và bắn ra ở khoảng cách quá xa nên độ chính xác rất thấp.

Tiến về phía trước theo các đội hình được cải tiến, pháo binh Phổ đã giã tới tấp vào chiến tuyến quân Pháp trên các ngọn dốc đối diện trong suốt từ chiều đến tối. Đạn pháo của Phổ đã biến các nông trang Moscou và Saint-Hubert thành một đống đổ nát. Dưới những đống đổ nát, quân phòng ngự Pháp nằm chết la liệt, thậm chí có người còn bị thiêu sống. Mặc dù vậy, quân Pháp vẫn trụ vững trong các vị trí phòng ngự đối diện với Gravelotte của mình. Mọi đợt tiến công của bộ binh Phổ nhằm vào các cứ điểm trước Moscou và Saint-Hubert đều bị quân Pháp bẻ gãy với thiệt hại hết sức to lớn. Chỉ riêng tại Saint-Hubert là quân Phổ còn đạt được thắng lợi. Do tọa lạc dưới đỉnh của cao điểm phòng ngự, Saint-Hubert nằm ngoài tầm mắt của quân Pháp trên các chiến tuyến chủ yếu và chỉ được bố phòng bởi một tiểu đoàn duy nhất. 14 tiểu đoàn Phổ đã nhất tề xung phong và, sau một trận giao chiến dữ dội, họ đã chiếm được Saint-Hubert không lâu trước 15h. Các khẩu đội pháo Phổ đã giam chặt những trung đoàn gan góc nhất của Pháp trong cứ điểm phòng thủ.

Trận đánh đã cho thấy sự linh hoạt của lực lượng pháo binh Phổ, khi họ vãn hồi tình hình sau các đợt tấn công thất bại của bộ binh và gây tổn thất ghê gớm cho các lực lượng phỏng thủ vững mạnh của quân Pháp. Sau chiến tranh, các nhà tư tưởng quân sự Đức đã nghiên cứu về tổn thất nặng nề của quân đội Phổ trong những trận đánh như Spicheren và Gravelotte để đúc kết kinh nghiệm rằng những cuộc tấn công ồ ạt bằng lưỡi lê của bộ binh không còn có tác dụng trên những chiến trường chi phối bởi hỏa lực súng trường và đại bác của chiến tranh hiện đại. Trái lại, các nhà tư tưởng quân sự Pháp khẳng định rằng những thắng lợi của quân Phổ bất chấp thương vong cao cho thấy tinh thần tấn công mới là nhân tố quyết định của chiến tranh hiện đại, chứ không phải hỏa lực. Quan niệm này đã góp phần củng cố trào lưu "sùng bái tấn công" trong giới chỉ huy quân sự Pháp đầu thế kỷ XX và dẫn đến những cuộc tấn công thảm bại của quân đội Pháp trong giai đoạn đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Những diễn biến theo sau

Mặc dù vua Wilhelm I trở nên tin rằng chiến thắng Gravelotte và sự cô lập Tập đoàn quân Rhine trong pháo đài Metz là thời điểm quyết định của cuộc chiến, Moltke vẫn không dám chắc. Vào buổi sáng ngày 19 tháng 8 năm 1870, ông bắt đầu chuyển trọng tâm của mình sang cánh quân MacMahon tại Châlons ở phía tây. Được sự chấp thuận của đức vua, Moltke ra chỉ thị tách các Quân đoàn Vệ binh, IV và II từ Tập đoàn quân số 2 và để lại 4 quân đoàn còn lại của tập đoàn quân này ở Metz để phối hợp với Tập đoàn quân số 1 bao vây Tập đoàn quân Rhine. Thân vương Friedrich Karl được lãnh chức tổng chỉ huy lực lượng vây hãm pháo đài. Từ ba quân đoàn kia, Moltke thành lập Tập đoàn quân Maas dưới sự thống lĩnh của Thái tử Sachsen là Albert. Sau khi nghỉ ngơi trong các ngày 19 và 20 tháng 8, Tập đoàn quân Maas và Tập đoàn quân số 3 tiến về hướng tây vào ngày 21 nhằm giải quyết cánh quân của MacMahon và dứt điểm chiến dịch đánh Pháp.

Trong khi Pháp gánh chịu thất bại chính trị và quân sự, các bang Đức đã được thống nhất thành Đế quốc Đức vào ngày 18 tháng 1 năm 1871. 10 ngày sau đó, thành phố Paris đầu hàng. Cuộc chiến cuối cùng đã chấm dứt với Hòa ước Frankfurt ngày 10 tháng 5.

Chú giải

• a) Do có sự chỉ huy trực tiếp của vua Wilhelm I, trận Gravelotte đôi khi được người Đức gọi là "trận chiến của Đức vua".

• b) Trong khi các Quân đoàn VII, VIII của Tập đoàn quân số 1 vượt sông Moselle, Quân đoàn I được giữ lại ở bờ đông để canh chừng trạm đường sắt Courcelles.

• c) Chính sử của Đế quốc Đức (G. G. S. I ii 37-41) cho biết bộ binh Phổ đã đập tan các đợt phản công dồn dập của địch, song không một tư liệu nào của Pháp đề cập đến điều này. Tác giả Pháp L. Pary có mô tả một cuộc phản công trong cuốn La Guerre telle qu`elle est 107-101, nhưng, theo nhận định Howard, có lễ nó diễn ra vào cuối chiều.

• d) Trên thực tế, Quân đoàn II nằm trong biên chế của Tập đoàn quân số 2

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Gravelotte** (theo cách gọi của người Đức) hay **Trận St. Privat** theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là **Trận Gravelotte-St. Privat**, là một trận đánh quyết định trong
**Trận Mars-la-Tour**, còn được gọi là **Trận Vionville**, **Trận Vionville–Mars-la-Tour** hay **trận Rezonville** theo tên các ngôi làng nằm trên đường Metz-Verdun Sau những thất bại mở màn của quân đội Pháp đầu tháng 8
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
**Trận Sedan** là một trận chiến quan trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào 1 tháng 9 năm 1870 tại Sedan trên sông Meuse, miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871), hai tập đoàn quân Phổ gồm khoảng 120.000 quân dưới sự thống lĩnh của Thân vương Friedrich Karl **vây hãm** 180.000 quân Pháp do Thống chế François
**Giao tranh tại Nouart** là một hoạt động quân sự cho chiến dịch nước Pháp của quân đội Phổ – Đức trong các năm 1870 – 1871, đã diễn ra vào ngày 29 tháng 8
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Reimar Constantin von Alvensleben** (26 tháng 8 năm 1809 – 28 tháng 3 năm 1892) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ (và quân đội Đế quốc Đức sau này). Ông đã tham gia
phải|nhỏ|Bản thảo của một [[pháo đài Biehler.]] **Hans Alexis Biehler**, sau năm 1871 là **von Biehler** (16 tháng 6 năm 1818 tại Berlin – 30 tháng 12 năm 1886 tại Charlottenburg) là một Thượng tướng
**Eduard Friedrich Karl von Fransecky** (16 tháng 11 năm 1807 – 22 tháng 5 năm 1890) là một tướng lĩnh trong quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc thành lập Đế quốc
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Christof Gottlieb Albert Freiherr von Barnekow** (2 tháng 8 năm 1809 tại Hohenwalde, Đông Phổ – 24 tháng 5 năm 1895 tại Naumburg (Saale)) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp
**Binh đoàn số 1** () là một đại đơn vị quân sự của Phổ trong Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870-1871. Đơn vị này từng chiến đấu ở Lorraine vào đầu cuộc chiến và sau đó
**Gustav Franz Wilhelm von Kleist** (19 tháng 9 năm 1806 tại Körbelitz – 26 tháng 3 năm 1882 tại Berlin) là một sĩ quan kỹ thuật Phổ, đã được thăng đến hàm Trung tướng. Ông
**Martin Wilhelm Remus von Woyrsch** (4 tháng 2 năm 1847 – 6 tháng 8 năm 1920) là một Thống chế của Phổ đã từng tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, Chiến tranh Pháp-Đức
**Hans Heimart Ferdinand von Linsingen** (12 tháng 3 năm 1818 tại Lüneburg – 19 tháng 7 năm 1894 tại Dessau) là một Thiếu tướng quân đội Phổ, đã từng tham gia cuộc Chiến tranh Bảy
**Otto August Knappe von Knappstädt ** (22 tháng 4 năm 1815 tại Oels – 16 tháng 2 năm 1906 tại Neubrandenburg), là một sĩ quan quân đội Phổ, làm đến quân hàm Thượng tướng Bộ
**Georg Friedrich von Kleist** (25 tháng 9 năm 1852 tại điền trang Rheinfeld ở Karthaus – 29 tháng 7 năm 1923 tại điền trang Wusseken ở Hammermühle) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã
Ngày **18 tháng 8** là ngày thứ 230 (231 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 135 ngày trong năm. ## Sự kiện *1868 – Bằng chứng đầu tiên của nguyên tố Heli được nhà
**Peter Friedrich Ludwig „Louis“ von Weltzien** (1 tháng 4 năm 1815 tại Bockhorn (Friesland) – 16 tháng 10 năm 1870 tại Wiesbaden) là một sĩ quan Đức, đã được phong đến cấp Trung tướng trong
**August Christoph Viktor von Kleist** (19 tháng 2 năm 1818 tại Perkuiken – 14 tháng 5 năm 1890 tại Potsdam) là một Thiếu tướng quân đội Phổ, đã từng được giao nhiệm vụ phòng ngự
**Hermann Friedrich Wilhelm Alexander von Lüderitz** (1 tháng 1 năm 1814 tại Orpensdorf ở Stendal – 13 tháng 11 năm 1889 tại Berlin) là Trung tướng và chính trị gia Phổ. Ông đã từng tham
**Friedrich Bertram Sixt von Armin** (27 tháng 11 năm 1851 – 30 tháng 9 năm 1936) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ – Đức. Từng tham gia chiến đấu trong cuộc Chiến tranh
Mười ba vận động viên từ **Pháp** tham gia 6 bộ môn tại **Thế vận hội Mùa hè 1896**. Pháp là nước thứ tư giành được nhiều huy chương vàng nhất với 5 huy chương
**Albert I của Sachsen** (tên đầy đủ: _Friedrich August Albrecht Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis_) (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1828 tại Dresden – mất ngày 19 tháng
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Philippe Mari Henri Roussel, bá tước de Courcy** (30 tháng 5 năm 1827 - 8 tháng 11 năm 1887, phiên âm tiếng Việt là **Đờ Cuốc-xi**) là một trung tướng của quân đội Pháp. Ông
**Friedrich Karl Nikolaus của Phổ** (1828 – 1885) là cháu trai Wilhelm I – vị hoàng đế khai quốc của đế quốc Đức – và là một Thống chế quân đội Phổ-Đức. Ông thường được
**Wilhelm Leopold Colmar Freiherr von der Goltz** (12 tháng 8 năm 1843 – 19 tháng 4 năm 1916), còn được biết đến như là _Goltz Pasha_, là một Thống chế của Phổ, Đế quốc Đức
**Eugen Ludwig Hannibal von Delitz** (31 tháng 1 năm 1820 tại Berlin – 22 tháng 3 năm 1888 tại Potsdam) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thiếu tướng. Ông
phải|nhỏ|Trung tướng Emil Karl von Pfuel **Emil Karl Friedrich von Pfuel** (13 tháng 11 năm 1821 tại Jästersheim – 4 tháng 7 năm 1894 tại Breslau) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được
phải|nhỏ|Tướng Adolf von Glümer Heinrich Karl Ludwig **Adolf von Glümer** (5 tháng 6 năm 1814 tại Lengefeld – 3 tháng 1 năm 1896 tại Freiburg im Breisgau) là một sĩ quan quân đội Phổ, được
**Karl Freiherr von Wrangel** (28 tháng 9 năm 1812 tại Königsberg, Đông Phổ – 28 tháng 11 năm 1899 tại điền trang của con rể ông ở huyện Rothenburg, Oberlausitz) là một Thượng tướng Bộ
phải|nhỏ|Ludwig von Wittich **Friedrich Wilhelm Ludwig von Wittich** (15 tháng 10 năm 1818 tại Münster – 2 tháng 10 năm 1884 tại điền trang Siede của mình ở miền Neumark) là một sĩ quan quân
**Alfred Wilhelm Ferdinand von Kaphengst** (23 tháng 1 năm 1828 tại Potsdam – 25 tháng 12 năm 1887 tại Freiburg im Breisgau) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được phong đến cấp Thiếu
phải|nhỏ|Hans von Kretschmann năm [[1897.]] **Hans Alfred Konstantin von Kretschmann**, còn gọi là _Hans von Kretschman_, (21 tháng 8 năm 1832 tại Charlottenburg – 30 tháng 3 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan
phải|thumb|Chân dung tướng Alkmar II. von Alvensleben **Alkmar II. von Alvensleben** (16 tháng 9 năm 1841 tại Weteritz – 10 tháng 11 năm 1898 tại Naumburg) là một tướng lĩnh quân đội Đức, đã từng
**Wilhelm Friedrich von Woyna** (7 tháng 5 năm 1819 tại Trier – 29 tháng 12 năm 1896 tại Bonn) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh.
phải|nhỏ|Tướng Gustav von Stiehle **Friedrich Wilhelm Gustav Stiehle**, sau năm 1863 là **von Stiehle** (14 tháng 8 năm 1823 tại Erfurt – 15 tháng 11 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội
**Gustav Bernhard Karl Thilo von Schimmelmann** (4 tháng 8 năm 1816 – 17 tháng 2 năm 1873) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp bậc Thượng tướng Bộ binh. ## Tiểu
phải|nhỏ|Ernst von Unger (1831–1921), Thượng tướng Kỵ binh **Ernst Karl Friedrich von Unger** (5 tháng 6 năm 1831 tại Groß-Stöckheim tại Wolfenbüttel – 10 tháng 10 năm 1921 tại Falkenberg) là một sĩ quan quân
**Albert Ehrenreich Gustav von Manstein** hoặc Albert Gustav von Manstein (24 tháng 8 năm 1805 – 11 tháng 5 năm 1877) là một tướng lĩnh quân đội Phổ, đã có nhiều đóng góp đến việc
**Leopold Hermann von Boyen** (6 tháng 6 năm 1811 tại Königsberg – 18 tháng 12 năm 1886 tại Jena) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ, sau này là Thống đốc của pháo đài
phải|Julius von Hartmann **Julius Hartwig Friedrich von Hartmann** (2 tháng 3 năm 1817 tại Hannover – 30 tháng 4 năm 1878 tại Baden-Baden) là một Thượng tướng Kỵ binh của Phổ. Ông đã từng tham
**Hans von Bülow** (27 tháng 12 năm 1816 tại Ossecken, Kreis Lauenburg in Pommern – 9 tháng 12 năm 1897 tại Berlin; tên đầy đủ là _Hans Adolf Julius von Bülow_) là một Thượng tướng
phải|nhỏ|Tướng Ludwig von Schlotheim **Carl Ludwig Freiherr von Schlotheim** (22 tháng 8 năm 1818 tại Uthleben – 7 tháng 4 năm 1889 tại Kassel) là một Thương tướng Kỵ binh trong quân đội Phổ, đã
**Gustav Emil Bernhard Bodo von Kessel** (6 tháng 4 năm 1846 tại Potsdam – 28 tháng 5 năm 1918 tại Berlin) là một Thượng tướng quân đội Phổ, Tổng chỉ huy quân đội ở tỉnh
phải|nhỏ|Gia huy của Gia đình von Prittwitz und Gaffron **Karl Heinrich Hans Wenzel von Prittwitz und Gaffron** (5 tháng 12 năm 1833 tại Berlin – 27 tháng 12 năm 1890 tại Görlitz) là một Thiếu