✨Trận Gravelotte
Trận Gravelotte (theo cách gọi của người Đức) hay Trận St. Privat theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là Trận Gravelotte-St. Privat, là một trận đánh quyết định trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào ngày 18 tháng 8 năm 1870 giữa hai ngôi làng St. Privat la Montagne và Gravelotte ở miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke, các lực lượng Phổ-Bắc Đức gồm Tập đoàn quân số 1 dưới quyền tướng Karl Friedrich von Steinmetz và Tập đoàn quân số 2 dưới quyền Thân vương Friedrich Karl đã tấn công và buộc Tập đoàn quân Rhine chủ lực của Pháp dưới quyền Thống chế François Achille Bazaine phải rút chạy vào Metz. Mặc dù quân Đức bị hao tổn nhiều binh lực hơn quân Pháp, thắng lợi chiến lược của họ ở Gravelotte đã dẫn đến sự bao vây cô lập lực lượng của Bazaine ở Metz, qua đó chia cắt hoàn toàn hai tập đoàn quân chủ lực của Pháp và thúc đẩy sự thất bại hoàn toàn của đế chế Napoléon III trong cuộc chiến.
Moltke dự định dùng đại bác giã nhừ phòng tuyến quân Pháp, rồi bọc sườn quân Pháp quanh St. Privat và hợp vây toàn bộ chiến tuyến đối phương từ phía bắc sang phía nam. Mặc dù vậy, các thuộc cấp của ông đã phát động những đợt tấn công trực diện vào tuyến phòng ngự của Pháp trên các cao điểm chế ngự trận địa. Trận chiến bùng nổ trên một thế trận đảo ngược: quân Phổ dựa lưng về phía Paris trong khi quân Pháp dựa lưng về biên giới với Đức. Với lợi thế về súng trường Chassepot tối tân, mỗi trong số 17 sư đoàn quân Pháp đã bắn ra 4 vạn phát đạn chỉ trong vòng 1 phút và đốn ngã các đợt tấn công của địch. Số quân Phổ chết và bị thương lên tới khoảng 2 vạn người trong ngày hôm đó. Tuy nhiên, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến thuật phòng ngự của Pháp vốn đã ăn sâu vào tâm trí họ từ năm 1866, các tướng lĩnh Pháp từ chối phản công, ngay cả khi xác lính Phổ chất đầy dưới chân họ. Điều đó đem lại thời gian cho phía Phổ điều động pháo binh bịt kín các lỗ hổng trong trận tuyến của họ và mở đường cho viện binh tiếp chiến từ phía bắc. Cuối cùng, các trung đội bộ binh của tướng Moltke đã làm chủ được các cao điểm phía trên Metz và ép địch rút xuống pháo đài.
Cũng giống như trận Mars-la-Tour hai ngày trước, trận Gravelotte được quyết định bởi pháo binh Phổ. Sự nhạy bén của pháo binh Phổ cùng với sự thụ động của Bazaine đã góp phần cứu vãn các đợt tấn công thất bại của quân bộ binh Phổ. Trong khi phần lớn thương vong của quân Phổ gây ra bởi súng trường Pháp, phần lớn thương vong của quân Pháp là do đại bác hiệu Krupp gây nên.
Bối cảnh
Ngày 6 tháng 8 năm 1870, trong khi Tập đoàn quân số 3 Đức do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy đè bẹp bộ phận quân Pháp của Thống chế Mac-Mahon gồm Quân đoàn I và một sư đoàn thuộc Quân đoàn VII ở Frœschwiller-Wœrth về hướng nam, các thành phần thuộc Tập đoàn quân số 1 và 2 Đức đánh thắng Quân đoàn II Pháp do Frossard chỉ huy ở Spicheren-Forbach trên mạn bắc. Hai thất bại mở màn này đã giáng một đòn nặng nề vào tinh thần chiến đấu của Tập đoàn quân Rhine do Hoàng đế Napoléon III trực tiếp chỉ huy và dẫn đến sự chia cắt hai bộ phận quân Pháp. Trước tình hình đó, vào ngày 7 tháng 8 năm 1870, Napoléon sai 3 quân đoàn I, V, VII rút về Châlons-sur-Marne để thành lập một tập đoàn quân mới do MacMahon trực tiếp chỉ huy, trong khi 5 quân đoàn chủ lực Tập đoàn quân Rhine tập kết tại Metz, trước khi rút về thành cổ Verdun trên sông Meuse và đến Châlons để hội quân với MacMahon. 5 ngày sau, Napoléon trao quyền tổng chỉ huy Tập đoàn quân Rhine cho Thống chế Bazaine, nguyên Tư lệnh Quân đoàn III. Sau một tuần lễ thụ động, Bazaine bắt đầu rút quân qua sông Moselle để rời Metz đến Verdun vào ngày 14 tháng 8. Quyết định này dẫn đến trận Borny-Colombey, một trận đánh ác liệt trong đó không bên nào giành thắng lợi nhưng cuộc triệt thoái của Bazaine đã bị trì hoãn đáng kể. Hôm sau, nắm được tiến độ triệt thoái lề mề của quân Pháp, vua Wilhelm I sai Moltke điều Tập đoàn quân số 2 vượt sông Moselle rồi tiến về phía tây và lên phía bắc để khóa chặt con đường Metz-Verdun. Bất chấp sự chậm chạp của đối phương, Tư lệnh Tập đoàn quân số 2 đã ban bố các mệnh lệnh dựa trên giả thiết rằng quân tiền vệ của Bazaine đã gần đến sông Meuse.
Moltke hiểu rõ ý nghĩa của chiến thắng ngày 16 tháng 8. Theo ông, việc hai quân đoàn Đức đối mặt với toàn bộ lực lượng của Bazaine trong trận đánh này cho thấy tình hình thuận lợi để huy động đại bộ phận binh lực cô lập Bazaine khỏi nội địa Pháp: "Số quân địch đối mặt với Quân đoàn III càng nhiều thì thành công của ta sẽ càng lớn vào ngày mai, khi ta có thể triển khai các Quân đoàn X, III, IV, VIII, VII và cuối cùng là XII để chống nhau với nó". Mặc dù Đại tá Gustav von Stiehle, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân số 2, đề xuất cho các lực lượng còn lại của tập đoàn quân mình tiếp tục hành quân về sông Meuse theo dự định nguyên thủy của Bộ Chỉ huy Tập đoàn quân số 2, Moltke giờ đây nhận thấy sông Meuse không còn có tầm quan trọng và ông lập tức bắt tay vào việc chuẩn bị bao vây xóa sổ quân chủ lực Pháp. Có hai phương án: hoặc là hợp vây quân của Bazaine ở vùng ngoại ô Metz rồi đẩy họ vào pháo đài và để đói họ trong đây, hoặc là đánh quân Pháp chạy về phía bắc tới Luxembourg, nơi họ sẽ bị giải giáp theo quy luật chiến tranh. Dựa trên hoạch định của Moltke, vào ngày 17 tháng 8, trong khi Steinmetz thúc chủ lực Tập đoàn quân số 1 qua sông Moselle, Friedrich Karl quay toàn bộ Tập đoàn quân số 2 về chiến trường ngày hôm trước.
Bố trí của quân Pháp
phải|thumb|Thống chế Bazaine, người đã lập nhiều công trạng cho nước Pháp trong các cuộc chiến tranh nước đó. Bazaine dành cả ngày 17 tháng 8 để triển khai cái được sử gia Hoa Kỳ Dennis Showalter gọi là "cứ điểm phòng ngự chiến thuật mạnh nhất trong chiến dịch". Trận tuyến phòng thủ của ông trải dọc theo một dải đất cao nằm ngoài Metz khoảng 1.6 km, kéo dài từ làng Saint-Privat phía bắc qua các làng Amanvillers và Gravelotte ở chính giữa, rồi xuống khu vực rừng rậm che phủ khe Mance, nơi có con suối chảy tới sông Moselle về hướng nam. Khe suối sâu Mance là một chiến ngại vật có tác dụng gây rối loạn các đội hình chặt chẽ của cánh trái quân Đức. Đồng thời, hệ thống cao điểm trên hàng cây đã tạo nên những khu vực bắn dài, chế ngự bởi các nông trang được gia cố St. Hubert, Leipzig, Moscou và Point du Jour nối liền với các chiến hào và hỏa điểm pháo binh của Pháp. Trong khi đó, phần lớn các khu vực ở trung tâm và bên phải (phía bắc) chiến tuyến chỉ dốc nhẹ và trống rỗng, tạo nên những khu vực bắn tuyệt vời cho súng trường nạp hậu tối tân Chassepot của Pháp.
Dưới sự chỉ huy của tướng Frossard, Quân đoàn II Pháp đóng giữ khu vực Mance. Các quân đoàn III (Le Bœuf) và IV (Ladmirault) đã triển khai lực lượng dọc theo cao điểm ở trung tâm, đồng thời xác lập tầm bắn và vùng bắn của mình. Nhiệm vụ trấn thủ cánh phải quân Pháp được giao cho Quân đoàn VI dưới quyền Thống chế Canrobert. Bazaine đã yêu cầu dàn quân đoàn này theo hình bậc thang theo hướng đông bắc để ngăn chặn sự hợp vây của địch, và Canrobert thiết lập vị trí phòng ngự chủ chốt của mình ở phía tây nam Saint-Privat.
Các đạo binh của Moltke sẽ trở thành mồi ngon cho quân phòng ngự Pháp nếu mọi thứ diễn ra như Bazaine định trước. Bazaine không hề đề ra kế hoạch về một cuộc phản công toàn lực nếu như quân Phổ bị đánh bại. Trong trường hợp quân ông bị thất trận, Bazaine sẽ rút vào pháo đài Metz và đợi chờ hoàng đế đưa quân tới cứu viện.
Không chỉ vậy, bộ binh Phổ đã rơi vào tầm đạn của một số khẩu mitrailleuse – loại súng được bí mật sản xuất từ năm 1866 với 25 nòng súng, vận hành bởi một vòng quay tay, có khả năng bắn ra 150 viên đạn một phút với tầm bắn 2.000 thước (1.829 m). Các khẩu mitrailleuse đã thảm sát lực lượng tấn công của Phổ, và phần nhiều trong con số thiệt hại to lớn của quân Phổ vào ngày 18 tháng 8 là do loại súng này gây nên. Nhưng ngoài trận Gravelotte-St. Privat ra, loại siêu vũ khí này không có nhiều ảnh hưởng đến cục diện của cuộc chiến. Mitrailleuse không phát huy được hiệu quả do binh lính không được huấn luyện sử dụng đầy đủ, được bố trí trong đội hình quá chật hẹp, và bắn ra ở khoảng cách quá xa nên độ chính xác rất thấp.
Tiến về phía trước theo các đội hình được cải tiến, pháo binh Phổ đã giã tới tấp vào chiến tuyến quân Pháp trên các ngọn dốc đối diện trong suốt từ chiều đến tối. Đạn pháo của Phổ đã biến các nông trang Moscou và Saint-Hubert thành một đống đổ nát. Dưới những đống đổ nát, quân phòng ngự Pháp nằm chết la liệt, thậm chí có người còn bị thiêu sống. Mặc dù vậy, quân Pháp vẫn trụ vững trong các vị trí phòng ngự đối diện với Gravelotte của mình. Mọi đợt tiến công của bộ binh Phổ nhằm vào các cứ điểm trước Moscou và Saint-Hubert đều bị quân Pháp bẻ gãy với thiệt hại hết sức to lớn. Chỉ riêng tại Saint-Hubert là quân Phổ còn đạt được thắng lợi. Do tọa lạc dưới đỉnh của cao điểm phòng ngự, Saint-Hubert nằm ngoài tầm mắt của quân Pháp trên các chiến tuyến chủ yếu và chỉ được bố phòng bởi một tiểu đoàn duy nhất. 14 tiểu đoàn Phổ đã nhất tề xung phong và, sau một trận giao chiến dữ dội, họ đã chiếm được Saint-Hubert không lâu trước 15h. Các khẩu đội pháo Phổ đã giam chặt những trung đoàn gan góc nhất của Pháp trong cứ điểm phòng thủ.
Trận đánh đã cho thấy sự linh hoạt của lực lượng pháo binh Phổ, khi họ vãn hồi tình hình sau các đợt tấn công thất bại của bộ binh và gây tổn thất ghê gớm cho các lực lượng phỏng thủ vững mạnh của quân Pháp. Sau chiến tranh, các nhà tư tưởng quân sự Đức đã nghiên cứu về tổn thất nặng nề của quân đội Phổ trong những trận đánh như Spicheren và Gravelotte để đúc kết kinh nghiệm rằng những cuộc tấn công ồ ạt bằng lưỡi lê của bộ binh không còn có tác dụng trên những chiến trường chi phối bởi hỏa lực súng trường và đại bác của chiến tranh hiện đại. Trái lại, các nhà tư tưởng quân sự Pháp khẳng định rằng những thắng lợi của quân Phổ bất chấp thương vong cao cho thấy tinh thần tấn công mới là nhân tố quyết định của chiến tranh hiện đại, chứ không phải hỏa lực. Quan niệm này đã góp phần củng cố trào lưu "sùng bái tấn công" trong giới chỉ huy quân sự Pháp đầu thế kỷ XX và dẫn đến những cuộc tấn công thảm bại của quân đội Pháp trong giai đoạn đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Những diễn biến theo sau
Mặc dù vua Wilhelm I trở nên tin rằng chiến thắng Gravelotte và sự cô lập Tập đoàn quân Rhine trong pháo đài Metz là thời điểm quyết định của cuộc chiến, Moltke vẫn không dám chắc. Vào buổi sáng ngày 19 tháng 8 năm 1870, ông bắt đầu chuyển trọng tâm của mình sang cánh quân MacMahon tại Châlons ở phía tây. Được sự chấp thuận của đức vua, Moltke ra chỉ thị tách các Quân đoàn Vệ binh, IV và II từ Tập đoàn quân số 2 và để lại 4 quân đoàn còn lại của tập đoàn quân này ở Metz để phối hợp với Tập đoàn quân số 1 bao vây Tập đoàn quân Rhine. Thân vương Friedrich Karl được lãnh chức tổng chỉ huy lực lượng vây hãm pháo đài. Từ ba quân đoàn kia, Moltke thành lập Tập đoàn quân Maas dưới sự thống lĩnh của Thái tử Sachsen là Albert. Sau khi nghỉ ngơi trong các ngày 19 và 20 tháng 8, Tập đoàn quân Maas và Tập đoàn quân số 3 tiến về hướng tây vào ngày 21 nhằm giải quyết cánh quân của MacMahon và dứt điểm chiến dịch đánh Pháp.
Trong khi Pháp gánh chịu thất bại chính trị và quân sự, các bang Đức đã được thống nhất thành Đế quốc Đức vào ngày 18 tháng 1 năm 1871. 10 ngày sau đó, thành phố Paris đầu hàng. Cuộc chiến cuối cùng đã chấm dứt với Hòa ước Frankfurt ngày 10 tháng 5.
Chú giải
• a) Do có sự chỉ huy trực tiếp của vua Wilhelm I, trận Gravelotte đôi khi được người Đức gọi là "trận chiến của Đức vua".
• b) Trong khi các Quân đoàn VII, VIII của Tập đoàn quân số 1 vượt sông Moselle, Quân đoàn I được giữ lại ở bờ đông để canh chừng trạm đường sắt Courcelles.
• c) Chính sử của Đế quốc Đức (G. G. S. I ii 37-41) cho biết bộ binh Phổ đã đập tan các đợt phản công dồn dập của địch, song không một tư liệu nào của Pháp đề cập đến điều này. Tác giả Pháp L. Pary có mô tả một cuộc phản công trong cuốn La Guerre telle qu`elle est 107-101, nhưng, theo nhận định Howard, có lễ nó diễn ra vào cuối chiều.
• d) Trên thực tế, Quân đoàn II nằm trong biên chế của Tập đoàn quân số 2