✨Binh đoàn Châlons

Binh đoàn Châlons

Binh đoàn Châlons () là một đạo quân của Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870. Được thành lập tại trại Châlons vào ngày 17 tháng 8 năm 1870, từ một phần của Binh đoàn sông Rhin, Binh đoàn Châlons đã tham gia các trận chiến ở Beaumont và Sedan trước khi tan rã sau khi đầu hàng quân Đức vào ngày 2 tháng 9 năm 1870.

Hình thành

Sau những thảm bại của Binh đoàn sông Rhin () đầu tháng 8 tại Wissembourg, Wörth, Forbach, Hoàng hậu Eugénie, vốn được Hoàng đế Napoleon III chỉ định làm Nhiếp chính, đã triệu tập hai viện vào ngày 9 tháng 8 năm 1870. Ba ngày sau, Hoàng đế quyết định giao quyền chỉ huy Binh đoàn sông Rhin cho Thống chế Bazaine.

Vào ngày 17 tháng 8, Hoàng đế đang ở Châlons và trong một động thái cải tổ bộ máy chiến tranh, đã quyết định bổ nhiệm Bazaine vào chức vụ Généralissime của quân đội Pháp, tướng Trochu làm thống đốc Paris và Thống chế de MacMahon làm chỉ huy Binh đoàn Châlons. Theo đó, binh đoàn mới này được cấu thành từ những đơn vị sẵn có, bao gồm Quân đoàn 1 gia nhập trại Châlons từ ngày 14 đến ngày 17 tháng 8, Quân đoàn 5 của tướng Failly, Quân đoàn 7 của tướng Douay, và Quân đoàn 12 mới được thành lập từ các trung đoàn bộ binh sẵn có, các trung đoàn mới tổ chức thành lập bởi 4 tiểu đoàn dự bị còn sót lại và các trung đoàn cận vệ. Cả bốn quân đoàn được tập hợp tại Reims vào ngày 20 tháng 8 năm 1870.

Tác chiến

nhỏ|trái|Bản đồ hành quân của binh đoàn Châlons tại Sedan. Trong khi Mac Mahon mong muốn rút lui về Paris để tái thiết binh đoàn, những áp lực chính trị lại hướng ông về việc giải cứu Bazaine, vốn đang bị vậy hãm tại Metz sau các cuộc giao tranh mới tại Rezonville và Saint-Privat vào ngày 16 và 18 tháng 8. Ngày 23 tháng 8, Mac Mahon quyết định rời Reims và binh đoàn hành quân về phía đông bắc để vượt qua sông Meuse giữa Sedan và Verdun.

Trong khi bốn quân đoàn của Mac Mahon tiến về phía đông bắc, quân Đức, vốn đã giành được nhiều thắng lợi trước đó, đã tổ chức lại thành hai cụm:

  • Tại chiến trường Metz có các Binh đoàn số 1, bốn quân đoàn của Binh đoàn số 2 và một sư đoàn.
  • Đối chiến với binh đoàn Châlons có Binh đoàn số 3, gồm 5 quân đoàn, được hỗ trợ bởi một đạo quân mới thành lập, Binh đoàn sông Maas hay Binh đoàn số 4, gồm 3 quân đoàn và 4 sư đoàn kỵ binh. Tổng binh lực là 188.000 bộ binh, 36.000 kỵ binh và hơn 810 khẩu pháo .

Quân Pháp hành quân chậm chạp, bị quân Đức đuổi kịp trước khi kịp tiến đến sông Meuse. Vào ngày 29 tháng 8, sau cuộc giao chiến đầu tiên tại Nouart với Quân đoàn XII Sachsen, Quân đoàn 5 của tướng de Failly đóng quân tại Beaumont. Khoảng giữa trưa ngày 30 tháng 8, loạt đạn đầu tiên đã pháo kích trúng trại. Ba quân đoàn của Đức giao tranh với quân Pháp tại Beaumont: Quân đoàn I Bayer ở bên trái, Quân đoàn IV Phổ ở trung tâm và Quân đoàn XII Sachsen ở bên phải. Mặc dù chiến đấu anh dũng và kháng cự quyết liệt, quân đoàn của tướng de Failly vẫn bị đánh bại và phải rút lui về Sedan. nhỏ|219x219px|Tướng Wimpffen, Tư lệnh Binh đoàn Châlons tại Sedan. Trận chiến Beaumont dẫn đến hậu quả Thống chế Mac Mahon buộc phải từ bỏ kế hoạch đến giải cứu Bazaine tại Metz. Thay vào đó, từ ngày 30 tháng 8, ông đã phải triển khai các quân đoàn đến các thành phố Bazeilles và Sedan.

Vào ngày 31 tháng 8, Quân đoàn I Bayer của tướng Von der Tann giao chiến với Quân đoàn 12 trong khi đánh chiếm một cầu đường sắt bắc qua sông Meuse ở phía nam Bazeilles. Ngày hôm sau, ngày 1 tháng 9 năm 1870, quân đoàn III và IV của Đức tấn công binh đoàn của Mac Mahon đóng ở hai thành phố. Thống chế Mac Mahon bị thương trong khi đang tìm cách tham gia chỉ huy Quân đoàn 12 của tướng Lebrun, khi ấy đang bị Quân đoàn I Bayer tấn công tại Bazeilles. Ban đầu tướng Ducrot lên nắm quyền chỉ huy binh đoàn, nhưng sau đó ông bị thay thế bởi lệnh của Bộ trưởng Chiến tranh, bởi tướng Winpffen, người vừa được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn 5 trước đó không lâu. Do mâu thuẫn và thiếu nhất quán trong hành động của các chỉ huy Pháp, quân Đức đã kịp hoàn thành việc bao vây binh đoàn Châlons ở Sedan. Sáng ngày 2 tháng 9, lệnh đầu hàng có hiệu lực. Trận chiến này chứng kiến sự tan rã của Binh đoàn Châlons, khiến Pháp tổn thất 124.000 người.

Thành phần binh đoàn

Tướng Forgeot, chỉ huy pháo binh. Tướng Ducrot, Tư lệnh Quân đoàn 1. nhỏ|206x206px|Tướng de Failly, Tư lệnh Quân đoàn 5. nhỏ|270x270px|Tướng Douay, Tư lệnh Quân đoàn 7. Ngày 23 tháng 8 năm 1870, Binh đoàn Châlons được thành lập, gồm 4 Quân đoàn cùng với pháo binh và kỵ binh dự bị, bao gồm 105.000 bộ binh, 14.709 kỵ binh, 393 khẩu pháo và 76 súng máy. Trung tá Rousset đã đưa ra một sự phân chia binh lực ước tính theo các đơn vị lớn:

  • Tổng tư lệnh: Thống chế Mac Mahon, Công tước Magenta, sau đến tướng Wimpffen (1 tháng 9)
  • Tham mưu trưởng: tướng Faure
  • Chỉ huy pháo binh: tướng Forgeot
  • Chỉ huy công binh: tướng Dejean

; Đơn vị tác chiến

  • Quân đoàn 1 (1er corps d'armée), tướng Ducrot làm tư lệnh, đại tá Robert làm tham mưu trưởng
  • Quân đoàn 5 (5e corps d'armée), tướng de Failly làm tư lệnh, tướng Besson làm tham mưu trưởng.
  • Quân đoàn 7 (7e corps d'armée), tướng Douay làm tư lệnh, tướng Renson làm tham mưu trưởng.
  • Quân đoàn 12 (12e corps d'armée), tướng Lebrun làm tư lệnh, tướng Gresley làm tham mưu trưởng.

; Lực lượng Dự bị

  • Sư đoàn kỵ binh số 1, do tướng Margueritte chỉ huy
  • Sư đoàn kỵ binh số 2, do tướng de Bonnemain chỉ huy
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Binh đoàn Châlons** () là một đạo quân của Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870. Được thành lập tại trại Châlons vào ngày 17 tháng 8 năm 1870, từ một phần của Binh
**Binh đoàn số 3** () là một biên chế đơn vị quân sự được thành lập trong thời gian ngắn trong Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được tạo thành từ các đơn vị quân đội của
**Binh đoàn sông Rhin** () là một đại đơn vị quân sự Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được thành lập ngay sau khi Pháp tuyên chiến với Phổ vào ngày 18 tháng 7
**Trận Châlons**, hay còn gọi là **trận đồng bằng Catalaunian** hoặc **trận Campus Mauriacus**, diễn ra vào năm 451 giữa một bên là người Hung cùng các đồng minh do vua Attila chỉ huy đối
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
**Trận Sedan** là một trận chiến quan trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), đã diễn ra vào 1 tháng 9 năm 1870 tại Sedan trên sông Meuse, miền Đông Bắc nước Pháp. Dưới sự chỉ
Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ (1870 – 1871), hai tập đoàn quân Phổ gồm khoảng 120.000 quân dưới sự thống lĩnh của Thân vương Friedrich Karl **vây hãm** 180.000 quân Pháp do Thống chế François
**Trận Spicheren** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Forbach**), còn được đề cập với cái tên **Trận Spicheren-Forbach**, là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của cuộc Chiến
**Flavius Aetius**, hoặc đơn giản là **Aëtius** (khoảng 396-454), _Quận công kiêm quý tộc_ ("dux et patricius"), là tướng La Mã vào thời kỳ cuối Đế quốc Tây La Mã. Ông theo quân đội từ
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
**Bùi Hữu Nhơn** (1928 - 2022) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Võ bị Viễn đông
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Trận Mars-la-Tour**, còn được gọi là **Trận Vionville**, **Trận Vionville–Mars-la-Tour** hay **trận Rezonville** theo tên các ngôi làng nằm trên đường Metz-Verdun Sau những thất bại mở màn của quân đội Pháp đầu tháng 8
**Trận Gravelotte** (theo cách gọi của người Đức) hay **Trận St. Privat** theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là **Trận Gravelotte-St. Privat**, là một trận đánh quyết định trong
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Trận Villiers**, còn gọi là **Trận Champigny-Villiers**, **Trận Champigny** hay **Trận Đại đột vây từ Paris**, diễn ra từ ngày 29 tháng 11 cho tới ngày 3 tháng 12 năm 1870 khi quân đội Phổ-Đức
**Trận chiến Buzancy** là một cuộc giao tranh quy mô nhỏ trong cuộc tấn công vào Pháp của quân đội Đức trong các năm 1870 – 1871, đã giành chiến thắng trước Trung đoàn kỵ
phải|nhỏ|Tướng Ludwig von Schlotheim **Carl Ludwig Freiherr von Schlotheim** (22 tháng 8 năm 1818 tại Uthleben – 7 tháng 4 năm 1889 tại Kassel) là một Thương tướng Kỵ binh trong quân đội Phổ, đã
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon
**Douglas MacArthur** (26 tháng 1 năm 18805 tháng 4 năm 1964) là một nhà lãnh đạo quân sự người Mỹ, từng giữ chức Thống tướng lục quân Hoa Kỳ, cũng như là Thống chế của
phải|nhỏ|Tướng Wilhelm von Tümpling **Wilhelm Ludwig Karl Kurt Friedrich von Tümpling** (30 tháng 12 năm 1809 tại Pasewalk – 13 tháng 2 năm 1884 tại Talstein thuộc Jena) là một sĩ quan Phổ, đã được
**Cuộc vây hãm Toul** là một hoạt động bao vây trong Chiến dịch chống Pháp của quân đội Phổ – Đức vào các năm 1870 – 1871,, tại Toul – một pháo đài nhỏ của
**Giao tranh tại Nouart** là một hoạt động quân sự cho chiến dịch nước Pháp của quân đội Phổ – Đức trong các năm 1870 – 1871, đã diễn ra vào ngày 29 tháng 8
**Chiến tranh Liên minh thứ Bảy** (), hay **Triều đại Một trăm ngày** ( ) là Liên minh cuối cùng trong loạt bảy Liên minh giữa một số cường quốc châu Âu, chống lại hoàng
**Hugo Ewald Graf von Kirchbach** (23 tháng 5 năm 1809 – 26 tháng 10 năm 1887) là một tướng lĩnh quân sự của Phổ, đã góp phần không nhỏ đến sự thành lập Đế quốc
:_Để biết về các nghĩa khác, xin xem Aurelianus (định hướng)._ **Lucius Domitius Aurelianus** (9 tháng 9 năm 214 hay 215 – tháng 9 hay tháng 10 năm 275), còn gọi là **Aurelian**, là Hoàng
Tính đến ngày 31/5/2018, Giáo hội Công giáo bao gồm 3,160 khu vực thuộc quyền tài phán giáo hội, trong đó có 645 Tổng giáo phận và 2,236 Giáo phận, cũng như Đại diện Tông
Trại của người Hung. **Người Hung** là một nhóm người dân du cư hay bán du cư trên lưng ngựa trong một liên minh lỏng lẻo ở khu vực Trung Á, có lẽ ban đầu
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
Những ghi chép đầu tiên về **lịch sử nước Pháp đã** xuất hiện từ thời đại đồ sắt. Ngày nay, nước Pháp chiếm phần lớn khu vực được người La Mã cổ đại gọi là
**Đế quốc Tây La Mã** là phần đất phía tây của Đế quốc La Mã cổ đại, từ khi Hoàng đế Diocletianus phân chia Đế chế trong năm 285; nửa còn lại của Đế quốc
**Người Sarmatia**, **người Sarmatae** hay **người Sauromatae** (tiếng Iran cổ _Sarumatah_ 'người bắn cung') là dân tộc có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ. Như được các tác giả cổ đại đề cập tới, họ
**Trận Nuits Saint Georges** là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ, Trong trận chiến này, Sư đoàn Baden của Đức do tướng Adolf von Glümer chỉ huy (thuộc Quân đoàn số XIV dưới
**Trận Beaumont**, và đánh bật quân đội Pháp về Mouzon. Quân Pháp chịu nhiều thiệt hại hơn quân Đức trong cuộc chiến này – vốn có tính quyết định hơn các trận thắng trước của
nhỏ|phải|von der Tann **Ludwig Samson Arthur Freiherr von und zu der Tann-Rathsamhausen** (18 tháng 6 năm 1815 – 26 tháng 4 năm 1881) là một tướng lĩnh quân sự của Bayern. Cùng với tướng Jakob
Bản đồ đế quốc La Mã vào năm 125 SCN, dưới thời hoàng đế [[Hadrian, cho thấy **Legio XXX Ulpia Victrix**, đóng quân tại Castra Vetera (Xanten, Đức), ở tỉnh Hạ Germania, từ năm 122
**Trận Tours** (ngày 10 tháng 10 năm 732), còn được gọi là **trận Poitiers** (phát âm tiếng Việt: **Poachiê**), tiếng - _ma‘arakat Balâṭ ash-Shuhadâ_) là một trận chiến diễn ra ở một địa điểm giữa
**Paris** () là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn với New York
**Élisabeth Charlotte xứ Pfalz, Công tước phu nhân xứ Orléans**; ; ; 27 tháng 5 năm 1652 – 8 tháng 12 năm 1722), còn được gọi là **Liselotte von der Pfalz**, là thành viên của
**Attila** ( Sinh: 395 hoặc 406; Không rõ – 453), người châu Âu gọi ông là **Attila Rợ Hung**, và đặt biệt hiệu là "Ngọn roi của Thượng đế" hoặc "tai họa của trời" (_fléau
thumb|upright=1.5|Thời gian di chuyển bằng xe lửa từ Paris (2007). Tất cả các phương thức vận tải đều được hiện diện trong Île-de-France, ngoại trừ vận tải hàng hải (tuy nhiên vẫn tồn tại một
**_Rome: Total War: Barbarian Invasion_** (tạm dịch: _Rome: Chiến tranh tổng lực – Man tộc xâm lược_) là bản mở rộng đầu tiên của trò chơi máy tính thể loại chiến lược theo lượt và