✨Trận Spicheren

Trận Spicheren

Trận Spicheren theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là Trận Forbach), còn được đề cập với cái tên Trận Spicheren-Forbach, là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), đã diễn ra quanh hai làng Spicheren và Forbach gần biên giới Saarbrücken vào ngày 6 tháng 8 năm 1870. Tại đây các đơn vị Đức thuộc Binh đoàn số 1 dưới quyền lão tướng Karl von Steinmetz và Quân đoàn III của Binh đoàn 2 dưới quyền Vương tử Friedrich Karl đã đánh bại được Quân đoàn II Pháp do tướng Charles Auguste Frossard chỉ huy. Cùng với những thắng lợi lớn của Binh đoàn 3 ở Alsace trong các ngày 4 và 6 tháng 8, chiến thắng Spicheren trên mạn Lorraine đã khai lối cho các đạo binh Đức tiến vào bản thổ Pháp.

Tổng tham mưu trưởng Đức Helmuth Graf von Moltke thoạt đầu dự định tập trung Binh đoàn 2, với Binh đoàn 1 yểm trợ sườn phía bắc, trên bờ sông Saar – nơi họ sẽ chờ đến khi Binh đoàn 3 đánh bại Quân đoàn I Pháp tại vùng Alsace và vượt dãy Vosges. Song vào ngày 5 tháng 8, Steinmetz tự ý quay quân xuống phía nam để tiến công sông Saar theo những lộ trình được quy định cho Binh đoàn 2, đẩy binh đoàn Phổ-Đức vào một chiến dịch tấn công trực diện ngoài ý muốn của Bộ Tổng tham mưu. Sau khi đơn vị đi đầu của Steinmetz – Sư đoàn 14 (Quân đoàn VII) Phổ tiếp cận Lorraine vào đầu ngày 6 tháng 8, sư đoàn trưởng là tướng Georg von Kameke lập tức phát lệnh tấn công tuyến phòng ngự rắn chắc của Quân đoàn II gồm 3 sư đoàn Pháp trên các cao điểm Spicheren-Forbach. Được trang bị súng trường hiện đại Chassepot, bộ binh Pháp đã chặn được các đợt tấn công đầu tiên của Sư đoàn 14.

Bối cảnh

Dù không có kế hoạch rành mạch, Hoàng đế Pháp Napoléon III đã điều các Quân đoàn II (tướng Frossard), III (Thống chế Bazaine), IV (tướng Ladmirault) và V (tướng De Failly) tiến gần đến biên giới Đức-Pháp ở Lorraine vào ngày 31 tháng 7 năm 1870, sau khi cuộc Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ. Đến ngày 2 tháng 8, Frossard kéo Quân đoàn II đánh vào bản thổ Đức và giành được thị trấn biên ải Saarbrücken từ tay 3 đại đội của Trung đoàn 40, Sư đoàn 16 (Phổ). Giữa lúc dư luận Pháp rộn rã ăn mừng thắng lợi mở màn của quân lực, Bộ Chỉ huy quân Pháp tại Metz lại trở nên dè đặt và không thể xác định một mục đích cụ thể nào cho các hoạt động tiếp theo.

Trong khi đó, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ-Đức Helmuth Graf von Moltke đã hội đủ các đạo binh hùng hậu của mình của mình trên một diện rộng từ Koblenz xuống Karlsruhe vào đầu tháng 8 năm 1870. Cánh trái của ông gồm Binh đoàn 1 (50.000 quân) dưới quyền Thượng tướng Bộ binh Karl von Steinmetz và Binh đoàn 2 (134.000 quân) dưới quyền Thân vương Friedrich Karl trên mạn bắc, cánh phải gồm 125.000 quân của Binh đoàn 3 do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy ở phía nam. Cũng như trong cuộc chiến tại Áo năm 1866, chủ trương hành động của Moltke là: "truy tìm quân chủ lực địch và tấn công chúng, ở bất cứ nơi nào chúng bị tìm thấy". Ông dự định tập trung Binh đoàn 2, với Binh đoàn 1 yểm trợ sườn phải tại Tholey, trên bờ đông sông Saar để giam chân chủ lực Binh đoàn sông Rhin trong khi Binh đoàn 3 (125.000 quân) tràn vào Alsace, đánh bại Quân đoàn I của Thống chế Pháp MacMahon tại đây rồi vượt dãy Vosges. Tiếp theo đó, Binh đoàn 2 sẽ tấn công quân chủ lực Pháp trong khu vực từ Saarbrücken đến Sarreguemines trong khi Binh đoàn 1 quành xuống phía nam bao vây sườn trái và Binh đoàn 3 vòng lên phía bắc để bọc kín sườn phải.

Frossard rút khỏi Saarbrücken

Như đã nêu, Bộ Tư lệnh quân Pháp trở nên do dự sau trận thắng đầu tiên tại Saarbrücken. Ban đầu Napoléon tính điều Quân đoàn IV mở một cuộc tiến công hạn chế vào thung lũng sông Saar, nhưng sau khi được viên cảnh sát trưởng thị trấn biên ải Wissembourg (Alsace) thông báo về sự xuất hiện của nhiều đạo quân Đức ngoài thị trấn vào ngày 3 tháng 8, vị hoàng đế hốt hoảng chuyển sang thế trận phòng ngự trên mạn đông nước Pháp. Tình hình đó làm Frossard bị lẻ loi tại Saarbrücken và tin tức về đại thắng của Binh đoàn 3 Đức ở Wissembourg ngày 4 tháng 8 đã khiến ông trở nên lo sợ bị chung số phận với Abel Douay. Do vậy, dưới ánh mắt quan sát của quân tuần tiễu Đức thuộc Sư đoàn Kỵ binh 5 (Binh đoàn 2) dưới quyền tướng Rheinbaben, Frossard rút quân khỏi Đức về cố thủ trên các cứ điểm rắn chắc quanh hai làng Spicheren và Forbach (Lorraine) cách Saarbrücken 3,22 km vào ngày 5 tháng 8 mà không cần đợi lệnh cấp trên. Nếu như một lực lượng tấn công nào chiếm được Đồi Đỏ, họ sẽ còn phải vượt qua một con đèo chật chội được chế ngự bởi cao điểm Pfaffenberg phía sau làng Spicheren để tiếp cận các sườn dốc chính quanh Spicheren và Forbach.

May mắn cho François, lực lượng pháo binh hùng hậu của Sư đoàn Bộ binh 14 giờ đây đã quy tụ về trận địa với số lượng lớn và cứu Lữ đoàn 27 khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Những khẩu đại bác hiệu Krupp đầy uy lực của tướng Kameke liên tục cày phá các chiến hào và thổi bay mọi đợt phản công của quân Pháp, gây thương vong hàng loạt cho đối phương. Một số đội hình pháo binh linh hoạt của Pháp đã dời xuống cao điểm nhằm thu ngắn tầm đạn của mình đồng thời khống chế ưu thế của đại bác Krupp, song bị các khẩu đội pháo binh Đức bắn trả liên tục và làm câm họng.

Trong khi Sư đoàn 16 đang đổ về Saarbrücken từ mạn bắc, Sư đoàn 5 (Trung tướng Ferdinand von Stülpnagel) thuộc Quân đoàn III Brandenburg – đơn vị đi đầu của Binh đoàn 2 – do Trung tướng Constantin von Alvensleben chỉ huy cũng đổ về từ hướng đông bắc. Dù cả Zastrow và Goeben đều trên quân hàm Alvensleben, Zastrow vì biết mình kém tài hơn nên đã viện cớ không còn quân trừ bị để đặt quyền điều khiển tác chiến vào tay vị tướng năng động này. Từ đây cho đến tối, quân Đức dưới sự yểm trợ của pháo binh đã mở hàng loạt cuộc tấn công quyết liệt vào trận tuyến quân Pháp.

Bên cánh phải, các đơn vị của Zastrow khi gần đêm đã chỉnh đốn tình hình và giành lại thế chủ động. Pháo Pháp dội xối xả vào các đội hình tấn công của Đức cho đến khi bị câm tịt trước sự phản pháo của một khẩu đội Đức dưới sự chỉ huy của Trung tá Gotz. Được Goeben tiếp sức bằng mọi tiểu đoàn chưa tham chiến của Sư đoàn 16, quân Đức mở rộng tấn công chiếm được nhiều vị trí từ tay các sư đoàn Vergé và Bataille trong màn đêm. Buổi sáng ngày 7 tháng 8, ông truyền lệnh cho toàn bộ quân lực rút về Châlons-sur-Marne, để lại mọi quyền chủ động chiến lược trong tay Graf Moltke. Nhưng, trong khi con đường tháo chạy về hướng tây-nam của MacMahon sau trận Wœrth đã mở rộng khoảng trống giữa 3 quân đoàn I, V, VII ở phía nam và 5 quân đoàn chủ lực Pháp trên mạn bắc, Frossard lại tự ý quyết định rút quân từ Sarreguemines về Metz mà không hỏi ý Napoléon khi hay tin Mac-Mahon đại bại. Cuối ngày 7 tháng 8, sau khi xác định lại tình hình, hoàng đế Pháp đành hạ lệnh cho cánh quân phía nam triệt thoái về Châlons để thành lập một binh đoàn mới do MacMahon chỉ huy, còn chủ lực Binh đoàn sông Rhin lui về tập kết tại pháo đài Metz rồi rút tới Châlons theo đường Verdun để hội quân với Mac-Mahon. Chỉ sau một tuần lễ chiến đấu, quân đội Pháp đã hoàn toàn triệt thoái.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trận Spicheren** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Forbach**), còn được đề cập với cái tên **Trận Spicheren-Forbach**, là một trong những trận đánh lớn đầu tiên của cuộc Chiến
**Trận Saarbrücken** là một trận đánh quy mô nhỏ, đồng thời là trận đánh đầu tiên trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ, diễn ra vào ngày 2 tháng 8 năm 1870. Đây là chiến dịch tấn
**Trận Wœrth** theo cách gọi của người Đức (người Pháp gọi là **Trận Frœschwiller-Wœrth ** hay **Trận Reichshoffen**), là một trong những trận lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870–1871), diễn ra vào
**Trận Wissembourg**, còn gọi là **Trận Weißenburg**, là trận đánh quan trọng đầu tiên của cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), đã diễn ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1870 tại khu vực
**Trận Gravelotte** (theo cách gọi của người Đức) hay **Trận St. Privat** theo cách gọi của người Pháp, còn được các sử gia gọi là **Trận Gravelotte-St. Privat**, là một trận đánh quyết định trong
**Trận Mars-la-Tour**, còn được gọi là **Trận Vionville**, **Trận Vionville–Mars-la-Tour** hay **trận Rezonville** theo tên các ngôi làng nằm trên đường Metz-Verdun Sau những thất bại mở màn của quân đội Pháp đầu tháng 8
**Chiến tranh Pháp – Phổ** (19 tháng 7 năm 1870 – 28 tháng 1 năm 1871), thời hậu chiến còn gọi là **chiến tranh Pháp – Đức** (do sự kiện thống nhất nước Đức ở
phải|nhỏ|Bruno von François **Bruno von François** (29 tháng 6 năm 1818 tại Magdeburg – 6 tháng 6 năm 1870 tại Spicheren) là một sĩ quan quân đội Phổ, được lên đến cấp hàm Thiếu tướng.
Bá tước **Helmuth Karl Bernhard _Graf_ von Moltke** (26 tháng 10 năm 1800 tại Parchim, Mecklenburg-Schwerin – 24 tháng 4 năm 1891 tại Berlin, Phổ) là một thống chế Phổ và đế quốc Đức. Ông
**Eduard Kuno von der Goltz** (còn được viết là _Cuno_) (2 tháng 2 năm 1817 tại Wilhelmstal – 29 tháng 10 năm 1897 tại Eisbergen ở Minden) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ
**Christof Gottlieb Albert Freiherr von Barnekow** (2 tháng 8 năm 1809 tại Hohenwalde, Đông Phổ – 24 tháng 5 năm 1895 tại Naumburg (Saale)) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp
phải|nhỏ|Tướng Adolf von Glümer Heinrich Karl Ludwig **Adolf von Glümer** (5 tháng 6 năm 1814 tại Lengefeld – 3 tháng 1 năm 1896 tại Freiburg im Breisgau) là một sĩ quan quân đội Phổ, được
**Bernhard Friedrich von Krosigk** (21 tháng 12 năm 1837 tại Merbitz – 7 tháng 4 năm 1912 tại Fürstenwalde) là người mang quyền thừa kế (_Fideikommissherr_) điền trang Merbitz, Thiếu tướng và thành viên Viện
**Hans von Bülow** (27 tháng 12 năm 1816 tại Ossecken, Kreis Lauenburg in Pommern – 9 tháng 12 năm 1897 tại Berlin; tên đầy đủ là _Hans Adolf Julius von Bülow_) là một Thượng tướng
**Binh đoàn sông Rhin** () là một đại đơn vị quân sự Pháp tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ. Nó được thành lập ngay sau khi Pháp tuyên chiến với Phổ vào ngày 18 tháng 7
**Binh đoàn Lê dương Pháp** (tiếng Pháp: _Légion étrangère,_ tiếng Anh_:_ _French Foreign Legion-FFL_) là một đội quân được tổ chức chặt chẽ, kỷ luật, chuyên môn cao, tinh nhuệ trực thuộc Lục quân Pháp.
**Binh đoàn số 1** () là một đại đơn vị quân sự của Phổ trong Chiến tranh Pháp–Phổ năm 1870-1871. Đơn vị này từng chiến đấu ở Lorraine vào đầu cuộc chiến và sau đó
phải|nhỏ|Hans von Kretschmann năm [[1897.]] **Hans Alfred Konstantin von Kretschmann**, còn gọi là _Hans von Kretschman_, (21 tháng 8 năm 1832 tại Charlottenburg – 30 tháng 3 năm 1899 tại Berlin) là một sĩ quan
**Wilhelm Friedrich von Woyna** (7 tháng 5 năm 1819 tại Trier – 29 tháng 12 năm 1896 tại Bonn) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Thượng tướng Bộ binh.
phải|nhỏ|Ernst von Unger (1831–1921), Thượng tướng Kỵ binh **Ernst Karl Friedrich von Unger** (5 tháng 6 năm 1831 tại Groß-Stöckheim tại Wolfenbüttel – 10 tháng 10 năm 1921 tại Falkenberg) là một sĩ quan quân
**Alexander Friedrich Adolf Heinrich von Zastrow** (11 tháng 8 năm 1801 – 12 tháng 8 năm 1875) là một tướng lĩnh Phổ, đã tham gia chỉ huy quân đội trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và
**Anton Wilhelm Karl von L'Estocq** (2 tháng 11 năm 1823 tại Neustrelitz – 18 tháng 8 năm 1913 tại Gut Matzdorf) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã làm tới cấp Trung tướng. Ông
phải|nhỏ|Tướng Graf von Wartensleben **Hermann Wilhelm Ludwig Alexander Karl Friedrich Graf von Wartensleben-Carow** (17 tháng 10 năm 1826 tại Berlin – 9 tháng 3 năm 1921 tại điền trang Karow ở Genthin) là một Thượng
Ngày **6 tháng 8** là ngày thứ 218 (219 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 147 ngày trong năm. ## Sự kiện *1284 – Nước Cộng hòa Pisa chiến bại trên đảo Meloria trước
nhỏ|Chân dung Georg von Kameke. **Arnold Karl Georg von Kameke** (14 tháng 4 năm 1817, tại Pasewalk – 12 tháng 10 năm 1893, tại Berlin) là một Thượng tướng Bộ binh và Bộ trưởng Chiến