✨Nhóm ngôn ngữ Việt

Nhóm ngôn ngữ Việt

Nhóm ngôn ngữ Việt hay Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt là một nhánh của ngữ hệ Nam Á. Trước đây người ta còn gọi Nhóm ngôn ngữ này là Việt-Mường, Annam-Muong, Vietnamuong, nhưng hiện nay nói chung các tên gọi này được dùng để chỉ phân nhánh của Nhóm ngôn ngữ Việt Mường, trong đó chỉ bao gồm tiếng Việt và tiếng Mường.

Tiếng Việt ngày nay đã có ảnh hưởng đáng kể từ tiếng Trung Quốc, đặc biệt là về từ vựng và hệ thống thanh điệu. Từ Hán-Việt chiếm khoảng 30-60% số vốn từ vựng tiếng Việt, không bao gồm từ mượn từ Trung Quốc.

Nguồn gốc

Nơi phát tích của Nhóm ngôn ngữ Việt thường được cho là Bắc Bộ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều luồng ý kiến trái chiều xoay quanh vấn đề này. Chamberlain James R., dựa trên cơ sở sự đa dạng ngôn ngữ, cho rằng Nhóm ngôn ngữ Việt có lẽ phát tích từ khu vực các tỉnh Bolikhamsai, Khammouane ở Lào và Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình ở Việt Nam ngày nay. Dù vậy, khảo cổ học đã chứng minh rằng trước thời Đông Sơn, cư dân châu thổ sông Hồng chủ yếu là người Nam Á: dữ liệu di truyền từ khu mộ Mán Bạc thuộc văn hóa Phùng Nguyên (có niên đại 1.800 TCN) rất gần với người nói tiếng Nam Á hiện đại; trái lại, "di truyền lai hợp" từ di chỉ Núi Nấp thuộc văn hóa Đông Sơn lại có mối liên hệ với "người Đài từ Trung Quốc, người nói tiếng Tai-Kadai từ Thái Lan, và người nói tiếng Nam Á từ Việt Nam, bao gồm cả người Việt"; do đó, "con đường di cư của Vietic nhiều khả năng là xuống phía nam từ đồng bằng sông Hồng, chứ không phải là lên bắc. Sự đa dạng ngôn ngữ ở phía nam sẽ cần những lời giải thích khác."

Tiếng Việt

Tiếng Việt được nhận dạng là một ngôn ngữ Nam Á vào giữa thế kỷ XIX với nhiều bằng chứng rất thuyết phục. Ngày nay, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn âm tiết giống như tiếng Quảng Đông hay tiếng Thái và đã mất nhiều đặc điểm âm vị-hình vị của ngôn ngữ Nam Á nguyên thủy. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, tiếng Việt đã vay mượn rất nhiều từ vựng của tiếng Hán lẫn các loại tiếng Thái. Chính vì sự tiếp xúc ngôn ngữ lâu dài này nên việc phân loại tiếng Việt gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, những đặc điểm này chỉ là bề ngoài, là kết quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ. Hiện vẫn có những nhà nghiên cứu không đồng tình với ý kiến phân loại tiếng Việt vào cùng nhóm với tiếng Khmer; nhưng giới chuyên gia hiện nay hầu như coi cách phân loại Môn-Khmer là chính thống.

Chamberlain (1998) cho rằng khu vực đồng bằng sông Hồng ban đầu là địa bàn cư trú của người Tai; còn người nói tiếng Việt di cư lên từ vùng Bắc Trung Bộ vào giữa thế kỷ VII - thế kỷ IX Công nguyên, bởi lẽ vùng Bắc Trung Bộ là nơi có rất nhiều phương ngữ Việt bảo thủ về mặt ngữ âm. Vì vậy, nơi phát tích của người Việt (và Việt-Mường tổ tiên) là ở phía nam sông Hồng. cho rằng một thứ tiếng gọi là "Hán ngữ trung cổ An Nam" (Annamese Middle Chinese) từng có mặt ở thung lũng sông Hồng và sau này bị hấp thụ vào tiếng Việt-Mường nguyên thủy. Tiếng Hán trung cổ An Nam là một phần của dãy phương ngữ tiếng Hán trung cổ vùng tây nam Trung Quốc, sau này "đa dạng hóa" thành tiếng Hán Ngõa Hương, tiếng patois Cửu Đô Thổ Thoại 九都土話 của Hạ Châu, Tiếng Bình phương nam, và các phương ngữ tiếng Tương của Trung Quốc (ví dụ: Tương Hương 湘鄉, Lô Khê 瀘溪, Kỳ Đông 祁東, và Tuyền Châu 全州).

*Vietic Thavưng–Malieng(Vietic Tây): Kri, Maleng, Malieng, Ahao/Ahlao, Thavung *Vietic Đông Chứt: Arem, Sách, Rục, Mày Phóng–Liha (Pong–Toum): Phong, Toum, Liha Cuói–Thổ: Cuối, Thổ ***Việt–Mường: Việt, Mường, Nguồn

Nhóm Thavưng–Malieng vẫn giữ nhiều đặc điểm âm vị và từ vựng rất cổ xưa, còn nhóm Chứt dung hòa hai âm cuối -r và -l thành *-l cùng với các ngôn ngữ phía bắc. sử dụng thuật ngữ Kri-Mol để chỉ nhánh Vietic, và cho rằng có hai nhánh tách rời lớn, đó là Mol-ToumNrong-Theun. Chamberlain (2018:12) đưa ra cây phân loại sau đây.

*;Kri-Mol **Mol-Toum *Việt-Mường Việt Mường, Nguồn *Toum-Ruc Toum, Phóng, Liha Rục, Cheut, Mày, Sách, Malieng **Nrong-Theun *Kri-Phoong Kri, Phoong Mlengbrou *Ahlao-Atel Ahoe-Ahlao ****Ahoe Ahlao, Ahao Atel-Maleng ****Thémarou Atel, Atop, (Makang), Arao, Maleng, Malang, To-e (Pakata)

Sidwell (2015)

Dựa trên các nghiên cứu so sánh của Ferlus (1982, 1992, 1997, 2001) và các nghiên cứu tiếng Mường mới đây của Phan (2012), chỉ ra rằng tiếng Mường là nhóm cận ngành và là phân nhóm của nhóm Việt. Sidwell (2015) đề xuất cây phân loại nội nhóm Vietic như sau.

Vietic Việt-Mường: Việt, Mường Muốt, Mường Nà bái, Mường Chỏi, vv. Pong-Toum: Đan Lai, Hung, Toum, Cuối, vv. Chứt Đông: Mã liềng, Maleng, Arem, Kri, Chứt (Mày, Rụt, Sách, Mụ Già), vv. *** Tây: Thavưng, Pakata, etc.

Chamberlain (2003)

Cây phân loại sau dựa theo Chamberlain (2003:422), trích từ Sidwell (2009:145). Không giống các phân loại cũ, có một nhánh "Nam" thứ sáu bao gồm tiếng Kri, một ngôn ngữ mới được mô tả lúc bấy giờ.

Vietic Bắc (Việt–Mường) Việt Mường (theo Phan (2012), Mường là nhánh cận ngành) Nguồn Tây Bắc (Cuối) Tây (Thavưng) Ahoe Ahao *Ahlao *Đông Nam (Chứt) Cheut Rục Sách Mày Malieng (Arem ?) (Kata) Tây Nam (Maleng) **Atel Thémarou Arao Makang Malang Maleng *Tơe *Nam (Kri) Kri Phóng Mlengbrou

So sánh một số từ cùng gốc

Tài liệu tiếng Rục, Thavưng và Thổ được lấy từ SEAlang Projects.

  • Thanh điệu trong tiếng Việt bắt nguồn từ các âm vị ở cuối từ trong ngôn ngữ tổ tiên chung của Nhóm ngôn ngữ Việt. Thanh sắcnặng của tiếng Việt xuất hiện ở những từ có âm tắc /-p -t -c -k -ʔ/ cuối từ, thanh hỏingã bắt nguồn từ âm /-h/ và /*-s/, còn thanh nganghuyền từ các trường hợp còn lại.
  • Các cụm phụ âm đầu k-l, b-l và p-l được lưu giữ ở nhiều ngôn ngữ. k-l trở thành /ʈʂ~ʈ/ (viết là ‹tr›) trong tiếng Việt. b-l và p-l cũng trở thành ‹tr› trong mọi phương ngữ Trung và Nam Bộ, nhưng lại thường trở thành /z/ (viết là ‹gi›) trong các phương ngữ Bắc Bộ (so sánh giời và trời, gio và tro, giầu và trầu, giai và trai). k-l, b-l và p-l phát triển thành /tl/ trong tiếng Mường (nhưng có phương ngữ mà cả ba đều giữ nguyên, hay b-l và *p-l hợp nhất).
  • Hai âm bật hơi pʰ và kʰ được xát hóa thành lần lượt /f/ ‹ph› và /x/ ‹kh› ở những phương ngữ Bắc Bộ, nhưng được lưu giữ phần nào trong các phương ngữ Trung Bộ, một số phương ngữ Nam Bộ và trong các ngôn ngữ khác.

Tên 12 con giáp

Michel Ferlus (1992, 2013) phát hiện rằng tên của 12 con giáp trong lịch Khmer (cũng chính là nguồn gốc của 12 con giáp trong lịch Thái) được vay mượn từ một dạng Việt-Mường bảo thủ về mặt ngữ âm. Ferlus cho rằng 12 con giáp Khmer có nguồn gốc từ một ngôn ngữ Việt-Mường nào đó (tức nhánh Bắc Vietic), chứ không phải từ một ngôn ngữ Nam Vietic, vì nguyên âm của từ "rắn" m.saɲ trong tiêng Khmer cổ tương ứng với âm /a/ của Việt-Mường chứ không phải âm /i/ của Nam Vietic.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhóm ngôn ngữ Việt** hay **Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á. Trước đây người ta còn gọi Nhóm ngôn ngữ này là **Việt-Mường**, **Annam-Muong**, **Vietnamuong**, nhưng hiện nay nói
**Nhóm ngôn ngữ Chứt**, là nhóm ngôn ngữ nhỏ thuộc ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á, phạn bố trên lãnh thổ Việt Nam và Lào. Đây là một trong ba nhóm, cùng với
**Nhóm ngôn ngữ Thái (Tai)** (còn gọi là **Nhóm ngôn ngữ Tráng-Thái**) là một Nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai. Nhóm ngôn ngữ này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Tráng, tiếng Bố
**Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu** là một Nhóm ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á với chừng 1,3 triệu người nói, có mặt ở bán đảo Đông Dương. Paul Sidwell, một trong những chuyên gia
thumb|Khẩu hiệu an toàn giao thông ở [[Kin, Okinawa, viết bằng tiếng Nhật (giữa) và tiếng Okinawa (trái và phải).]] là những ngôn ngữ bản địa ở quần đảo Lưu Cầu, phần viễn nam của
**Nhóm ngôn ngữ Lô Lô**, còn gọi là **Di** ở Trung Quốc, nhóm **Ngwi** (Bradley 1997) hay nhóm **Nisu** (Lama 2012), là một nhóm gồm hơn 50 ngôn ngữ, hiện diện chủ yếu ở Vân
**Nhóm ngôn ngữ Mảng**, bao gồm **nhóm ngôn ngữ Pakan**, là một nhánh ngôn ngữ Nam Á gồm một số ngôn ngữ đang nguy cấp. Phần lớn các ngôn ngữ này được sử dụng tại
**Nhóm ngôn ngữ Pamir** là một nhóm mang tính địa lý-dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Đông Iran, nói bởi người dân tại dãy núi Pamir, chủ yếu dọc theo sông Panj và các chi
nhỏ|Phân bố lượng người sử dụng các ngôn ngữ Munda tại Ấn Độ **Nhóm ngôn ngữ Munda** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á, được khoảng 9 triệu người ở miền trung và miền
**Nhóm ngôn ngữ Gbe** (phát âm ) là một tập hợp gồm khoảng 20 ngôn ngữ liên quan đến nhau hiện diện trên một khu vực kéo dài từ đông Ghana đến tây Nigeria. Số
**Nhóm ngôn ngữ Bahnar** là một nhóm 30 ngôn ngữ, được nói bởi chừng 700.000 người ở Việt Nam, Campuchia, và Lào. Hầu hết ngôn ngữ trong nhóm này đều khá điển hình cho ngữ
thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc ở Vân Nam, Trung Quốc [[Tập tin:Ethnolinguistic map of Burma 1972 en.svg|thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc ở Myanmar ]] **Nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến** (trong tiếng Anh gọi là _Lolo-Burmese_
**Nhóm ngôn ngữ Slav Đông** là một trong ba phân nhóm ngôn ngữ Slav, hiện được nói khắp Đông Âu, Bắc Á và vùng Kavkaz. Đây là nhóm ngôn ngữ Slav có đông người nói
**Nhóm ngôn ngữ Tai Trung** bao gồm các phương ngữ Tráng Nam, và các phương ngữ Nùng và Tày khác nhau của miền bắc Việt Nam. Các ngôn ngữ Tai Trung khác với các
**Nhóm ngôn ngữ Lechite** (hoặc **Lekhite**) là một nhóm ngôn ngữ bao gồm tiếng Ba Lan và một số ngôn ngữ và phương ngữ khác ban đầu được nói trong khu vực. Đây là một
**Nhóm ngôn ngữ Sorb** được phân loại thuộc nhánh Slav của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Các ngôn ngữ này là những ngôn ngữ bản địa của người Sorb, một nhóm thiểu số dân Slav ở
**Nhóm ngôn ngữ Kru** thuộc ngữ hệ Niger-Congo, hiện diện trên một vùng kéo dài từ đông nam Liberia đến đông Bờ Biển Ngà. Nguồn gốc tên gọi "Kru" chưa được làm rõ. Theo Westermann
phải|nhỏ| Châu tự trị Văn Sơn ở Vân Nam, Trung Quốc **Nhóm ngôn ngữ Mondzi** (**Mangi**) là một nhóm nhỏ các ngôn ngữ của nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến trong phân loại Lama (2012). Nhóm
**Nhóm ngôn ngữ Perm** là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ural. Chúng được nói ở một số vùng ở phía tây của Dãy núi Ural thuộc Liên bang Nga. Tổng số người nói
**Nhóm ngôn ngữ Athabaska** (cũng viết là _Athabasca_, _Athapaska_ hoặc _Athapasca_, và còn được gọi là **nhóm ngôn ngữ Dené**) là một nhóm ngôn ngữ bản địa lớn ở Bắc Mỹ, hiện diện ở mạn
**Nhóm ngôn ngữ Chăm**, còn gọi là **nhóm ngôn ngữ Aceh–Chăm**, là một nhóm gồm mười ngôn ngữ nói ở Aceh (Sumatra, Indonesia) và một số nơi ở Campuchia, Việt Nam và Trung Quốc (đảo
**Chi ngôn ngữ German phía Bắc** là một trong ba nhánh của ngữ tộc German thuộc ngữ hệ Ấn-Âu, cùng với Chi ngôn ngữ German phía Tây và Chi ngôn ngữ German phía Đông đã
**Nhóm ngôn ngữ Songhay** hoặc **Songhai** là một nhóm các ngôn ngữ/phương ngữ có liên quan chặt chẽ tập trung ở mạn trung lưu sông Niger ở các quốc gia Tây Phi gồm Mali, Niger,
**Nhóm ngôn ngữ Yupik** là nhóm ngôn ngữ riêng biệt của vài dân tộc Yupik sống ở mạn tây và nam-trung tâm Alaska và đông bắc Siberia. Các ngôn ngữ Yupik khác nhau khó thông
**Nhóm ngôn ngữ Ijaw**, cũng được viết là **_Ịjọ_**, là nhóm ngôn ngữ được nói bởi người Ijo ở miền nam Nigeria. ## Phân loại Nhóm ngôn ngữ Ijaw được phân loại truyền thống là
**Nhóm ngôn ngữ Nam Bantu** là một nhóm ngôn ngữ lớn thuộc nhóm ngôn ngữ Bantu, phần lớn được xác nhận trong Janson (1991/92). Chúng gần như tương tự với _Bantu zone S_ của Guthrie;
**Nhóm ngôn ngữ Canaan** hay **nhóm phương ngữ Canaan**, là một trong ba nhóm con của nhóm ngôn ngữ Semit Tây Bắc, hai nhóm còn lại là Aram và Amorite. Chúng được nói bởi những
**Nhóm ngôn ngữ Mã Lai (Malay)** là một nhánh của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thành viên nổi bật nhất là tiếng Mã Lay chuẩn, ngôn ngữ quốc gia của
**Nhóm ngôn ngữ Gaul-Rôman** thuộc nhóm ngôn ngữ Rôman bao gồm ngôn ngữ con tiếng Pháp, tiếng Occitan và tiếng tiếng Franco-Provençal (Arpitan). Tuy nhiên, các định nghĩa khác rộng hơn nhiều, bao gồm nhiều
**Nhóm ngôn ngữ Semit Tây Bắc** là một bộ phận của các ngôn ngữ Semit bao gồm các ngôn ngữ bản địa Levant. Nó xuất phát từ ngôn ngữ Semit nguyên thủy trong thời kỳ
**Nhóm ngôn ngữ Malay-Sumbawa** là một phân nhóm được đề xuất trong ngữ hệ Nam Đảo, là sự kết hợp nhóm ngôn ngữ Malay và nhóm ngôn ngữ Chăm với các ngôn ngữ ở Java
nhỏ|Một người đang nói tiếng Afrikaans, được ghi lạ cho [[Wikitongues.]] nhỏ|Một người đang nói [[Afrikaans|tiếng Afrikaans, được ghi lạ cho Wikitongues.]] **Nhóm ngôn ngữ Hạ Franken** (; ; ) là một nhóm ngôn ngữ
phải|nhỏ|371x371px|Một trang từ [[Geniza|Cairo Geniza, một phần trong đó được viết bằng ngôn ngữ Ả Rập Do Thái]] **Nhóm ngôn ngữ Ả Rập Do Thái** (; ע) là một cụm phương ngữ tiếng Ả Rập
**Ngữ chi Sami** (còn viết là **Sámi**, **Saami**) là một phân nhóm ngôn ngữ Ural, là tiếng nói của người Sámi miền Bắc Âu (bắc Phần Lan, Na Uy, Thuỵ Điển cùng vùng viễn tây
**Nhóm ngôn ngữ Nubia** (: lughāt nūbīyyah) là một nhóm các ngôn ngữ liên quan được người Nubia sử dụng. Chúng tạo thành một nhánh của các ngôn ngữ Đông Sudan, là một phần của
**Ngữ chi Hlai** (chữ Hán: 黎语; bính âm: Lí yǔ) hay **ngữ chi Lê** là một chi chính của _ngữ hệ Tai-Kadai_, được nói ở vùng núi trung tâm Hải Nam, Trung Quốc. Các ngôn
**Nhóm ngôn ngữ Mordvin**, (, _mordovskiye yazyki_, thuật ngữ chính thức của tiếng Nga cho cặp ngôn ngữ này), là một nhóm nhỏ trong ngữ hệ Ural, bao gồm tiếng Erzya và tiếng Moksha (cả
**Nhóm ngôn ngữ Slav Nam** là một trong ba nhánh của ngữ tộc Slav. Có khoảng 30 triệu người nói, chủ yếu ở Balkan. Chúng bị phân tách về mặt địa lý với người nói
**Nhóm ngôn ngữ Manding** (đôi khi được biết là **Manden**) là nhóm phương ngữ/ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Mande được nói ở Tây Phi. Các ngôn ngữ nổi bật nhất là tiếng Bambara, ngôn
**Nhóm ngôn ngữ Kra** hay **Nhóm ngôn ngữ Cờ-Ương** là một nhánh ngôn ngữ Tai–Kadai ở Nam Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Tây) và Bắc Việt Nam. Trong toàn hệ Tai–Kadai, Kra là nhóm ít
**Nhóm ngôn ngữ Bod** hay **ngữ chi Tạng** (藏语支) được đặt tên theo tộc danh của người Tạng là _Bod_, là một nhóm được đề xuất bao gồm nhóm ngôn ngữ Tạng và một số
**Ngữ chi Karen** là một nhóm các ngôn ngữ thanh điệu được khoảng trên 3,2 triệu người Karen sử dụng. Các ngôn ngữ này có nguồn gốc không rõ ràng trong phạm vi ngữ tộc
**Nhóm ngôn ngữ Japonic Bán đảo** là tập hợp các ngôn ngữ Japonic thất truyền từng được nói ở khu vực miền trung và miền nam của bán đảo Triều Tiên theo phỏng đoán của
**Ngôn ngữ** là một hệ thống giao tiếp có cấu trúc được sử dụng bởi con người. Cấu trúc của ngôn ngữ được gọi là ngữ pháp, còn các thành phần tự do của nó
phải|Bản đồ ngôn ngữ của châu Âu (đơn giản hóa). **Ngôn ngữ học châu Âu** là ngành ngôn ngữ học khá mới mẻ, nghiên cứu về các ngôn ngữ tại châu Âu. Tuy nhiên, ở
Trung Quốc có tới hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Hán tiêu chuẩn, dựa trên tiếng Quan Thoại là trung tâm, nhưng tiếng Trung Quốc có hàng trăm ngôn
phải|nhỏ|402x402px|[[Mã nguồn của một chương trình máy tính đơn giản được viết bằng ngôn ngữ lập trình C. Khi được biên dịch và chạy, nó sẽ cho kết quả "Hello, world!".]] **Ngôn ngữ lập trình**
**Ngữ tộc Môn-Khmer**, **Môn-Mên** hay **Mồn-Mên** là một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phần Đông Nam Á. Theo truyền thống, chúng được coi là tạo thành một nhóm
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
thumb|Các ngôn ngữ ở Hồng Kông Luật Cơ bản của Hồng Kông quy định tiếng Anh và tiếng Trung là hai ngôn ngữ chính thức của Hồng Kông. Trong thời kỳ thuộc địa của Anh,