✨Ngữ tộc Môn-Khmer

Ngữ tộc Môn-Khmer

Ngữ tộc Môn-Khmer, Môn-Mên hay Mồn-Mên là một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phần Đông Nam Á. Theo truyền thống, chúng được coi là tạo thành một nhóm phát sinh loài hợp lệ trong họ Nam Á, mặc dù giả thuyết đó đã bị tranh cãi. Theo giả thuyết này, ngữ hệ Nam Á sẽ được chia thành hai nhánh hoặc đơn vị phát sinh loài: các ngôn ngữ Môn-Khmer và các ngôn ngữ Munda. Sau đó, người ta đề xuất rằng các ngôn ngữ Nam Á thực sự bao gồm ba nhánh: Mon-Khmer hạt nhân, Munda và Khasi-Khơ Mú.

Phân loại

Phân loại trong bài này dựa trên bài viết của Gérard Diffloth năm 1974 trên Encyclopedia Britannica được nhiều người trích dẫn. Theo đó, ngữ tộc này được chia ra làm các nhánh sau đây:

Đông

  • Ba Na: bao gồm vào khoảng 30 ngôn ngữ tại Campuchia, Lào và Việt Nam với khoảng 700.000 người sử dụng.
  • Cơ Tu (Ka Tu): bao gồm vào khoảng 14 ngôn ngữ tại miền trung Lào và Việt Nam, đông bắc Thái Lan. Có khoảng 1,3 triệu người sử dụng, điển hình là tiếng Cơ Tu.
  • Khmer: bao gồm 1 ngôn ngữ phổ thông và nhiều phương ngữ tại Campuchia, đông bắc Thái Lan và miền Nam Việt Nam. Khoảng hơn 24 triệu người sử dụng.
  • Nhánh Pear: bao gồm vài ngôn ngữ tại miền nam Campuchia, mặc dù một số nhà ngôn ngữ nghi ngờ việc đưa các ngôn ngữ Pear vào gần với tiếng Khmer.
  • Việt (hay Việt-Mường): bao gồm khoảng 15 ngôn ngữ tại Lào và Việt Nam, trong đó tiếng Việt là tiếng nói phổ biến nhất trong ngữ hệ Nam Á vì có khoảng hơn 90 triệu người dùng. Ngoài ra còn có các tiếng Mường, Thổ (Cuối), Arem...

Bắc

  • Khasi: bao gồm khoảng 3 ngôn ngữ tại Meghalaya, Ấn Độ.
  • Khơ Mú: bao gồm khoảng 15 ngôn ngữ tại Lào, Thái Lan và Việt Nam.
  • Tiếng Mảng tại Việt Nam và Trung Quốc.
  • Nhánh Palaung: bao gồm khoảng 20 ngôn ngữ tại khu vực thượng lưu sông Salween, biên giới Myanmar và Trung Quốc, miền bắc Thái Lan.
  • Palyu tại miền nam Trung Quốc,
  • T'in tại tỉnh Nan, miền bắc Thái Lan

Nam

  • Aslian: bao gồm vào khoảng 20 ngôn ngữ tại bán đảo Mã Lai, được tách ra thành 3 nhóm, Jahaic, Senoic và Semelaic.
  • Môn: bao gồm 2 ngôn ngữ, một tại Thái Lan và một (tiếng Môn) tại Miến Điện. Khoảng 1 triệu người sử dụng.
  • Nicobar: bao gồm các ngôn ngữ của quần đảo Nicobar nằm trong vịnh Bengal của Ấn Độ.

Không phân loại

Ba ngôn ngữ tại miền nam Trung Quốc chưa được xếp loại.

  • Tiếng Bpoos Cam
  • Tiếng Khắc Miệt
  • Tiếng Khoan

Tuy nhiên, phân chia này cũng chỉ là tương đối. Nhóm ngôn ngữ Việt (Việt-Mường) nhiều khi được cho vào Nhánh phía Bắc nhưng thường cũng hay được xếp riêng; nhiều nhà ngôn ngữ học lại cho nhánh Việt-Mường vào Nhánh phía Đông và xếp nhánh Pear ra một mình; nhiều người lại không công nhận sự hiện diện của Nhánh phía Nam.... Tóm lại, sự phân loại của nhóm ngôn ngữ này vẫn còn là đề tài cho các nhà ngôn ngữ học bàn cãi.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngữ tộc Môn-Khmer**, **Môn-Mên** hay **Mồn-Mên** là một nhóm ngôn ngữ Nam Á bản địa của Đông Dương và một phần Đông Nam Á. Theo truyền thống, chúng được coi là tạo thành một nhóm
**Người Khmer** ( ; phiên âm tiếng Việt phổ biến: **Khơ-me**) hay **Cao Miên** (高棉), là một dân tộc cư trú phần lớn ở Campuchia và một số ở nửa phía nam bán đảo Đông
**Người Môn** (tiếng Myanmar: မွန်လူမျိုး); ) là một dân tộc nói tiếng Môn-Khmer ở Đông Nam Á, có quan hệ gần gũi với các dân tộc Môn-Khmer như người Khmer, người Khơ Mú, người Việt.
**Tiếng Môn** ( [pʰiəsa moʊn]; ; ; từng được gọi là **tiếng Peguan** và **tiếng Talaing**) là một ngôn ngữ Nam Á được nói bởi người Môn, một dân tộc sống tại Myanmar, Thái Lan
**Các ngôn ngữ Đông Á** thuộc về một số ngữ hệ khác biệt với các đặc tính chung hình thành từ quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ. Trong vùng ngôn ngữ học Đông
**Các dân tộc Lào** hay _các bộ tộc Lào_ là một danh từ chung để chỉ các dân tộc sống trên lãnh thổ nước CHDCND Lào. thumb|Nhà sàn của người Lào Thơng Phần lớn các
## Dân tộc lớn nhất ở Campuchia là người Khmer chiếm khoảng 90% tổng dân số, họ chủ yếu sinh sống ở tiểu vùng đất thấp sông Mekong và đồng bằng trung tâm. Trong lịch
**Ngữ hệ Nam Á** () là một ngữ hệ lớn ở Đông Nam Á lục địa, phân bố rải rác ở Ấn Độ, Bangladesh, Nepal và miền nam Trung Quốc, được nói bởi khoảng 117
Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc và 1 nhóm "người nước ngoài". Bản Danh mục các dân tộc Việt Nam này được Tổng cục Thống kê Việt Nam của chính phủ Việt Nam
thumb|Các nhóm sắc tộc theo ngôn ngữ Thái Lan năm 1974 thumb|Biểu đồ thể hiện dân số của Thái Lan. Vương quốc Thái Lan có khoảng 70 dân tộc, trong đó có 24 nhóm người
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
**Khmer Lơ** hay **Khmer Loeu** (tiếng Khmer: ខ្មែរលើ, phát âm: [kʰmae lə], "Khmer vùng cao"), là _tên gọi chung cho nhóm các dân tộc bản địa khác nhau_ cư trú tại vùng cao nguyên của
**Tà Mun** được cho là một dân tộc thiểu số chưa được công nhận, sinh sống rải rác tại vùng ven Hồ Dầu Tiếng ở các tỉnh Tây Ninh và Bình Phước. Họ vốn là
**Người Khơ Mú** (; Khmu: ; ; ; , ở Trung Quốc phiên âm Hán là **Khắc Mộc** (), tên gọi khác: **Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy**, trong văn liệu Latinh
thumb|Bản đồ dân tộc học Myanmar. Bản đồ biểu diễn cả các dân tộc thiểu số không được thừa nhận, như [[người Rakhine|Rakhine]] **Myanmar** hay **Miến Điện** là một quốc gia cực kỳ đa dạng
**Người Ơ Đu**, còn có tên gọi khác là **người Tày Hạt**, là một dân tộc ít người có vùng cư trú là huyện Tương Dương phía tây tỉnh Nghệ An, và Trung Lào. Từ
Người Bru - Vân Kiều gùi hàng trên [[đường 9]] **Người Bru - Vân Kiều** (còn gọi là **người Bru**, **người Vân Kiều**, **người Ma Coong**, **người Trì** hay **người Khùa**) là dân tộc cư
**Người Kháng**, còn gọi là **Xá Khao**, **Xá Xúa**, **Xá Đón**, **Xá Dâng**, **Xá Hộc**, **Xá Aỏi**, **Xá Bung**, **Quảng Lâm**, là dân tộc cư trú tại bắc Việt Nam và Lào. Họ là một
thumb|Đông Nam Á lục địa **Vùng ngôn ngữ Đông Nam Á lục địa** là một vùng ngôn ngữ kéo dài từ nam Thái Lan đến nam Trung Quốc và từ Myanmar đến Việt Nam với
**Người Gia Rai**, còn gọi là **Jarai** (**Jrai**) hay **Ană Krai** (con của rồng), là một dân tộc cư trú ở vùng Tây Nguyên của Việt Nam, đa số là tại Gia Lai và một
**Người Pa Kô** hay **người Pa Cô** là một nhóm của dân tộc Tà Ôi - dân tộc thiểu số có vùng cư trú truyền thống là Miền Trung Việt Nam và Nam Lào. Theo
**Người Palaung**, tại Trung Quốc gọi là **người Đức Ngang** ( hay trước đây là **người Băng Long** (崩龙族, Bēnglóng zú); tiếng Thái: ปะหล่อง) là sắc tộc cư trú ở ở vùng giáp ranh bắc
nhỏ|Phân bố lượng người sử dụng các ngôn ngữ Munda tại Ấn Độ **Nhóm ngôn ngữ Munda** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á, được khoảng 9 triệu người ở miền trung và miền
**Tiếng Mường** (__) là ngôn ngữ của người Mường tại Việt Nam. Tiếng Mường là ngôn ngữ thanh điệu, có mối liên hệ gần gũi với tiếng Việt và được xem như thuộc nhóm ngôn
__NOTOC__ **Người Va**, **người Wa** hay **người Ngõa** (tiếng Trung: 佤族, bính âm: Wǎzú, Hán-Việt: Ngõa tộc; ; ) là một dân tộc cư trú ở bắc Myanmar và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Người
**Người Cơ Tu** (còn gọi là **người Ka Tu**, **Gao**, **Hạ**, **Phương**, **Ca-tang**) là một dân tộc sống ở Miền Trung (Việt Nam) và Hạ Lào. Dân số người Cơ Tu có khoảng trên 103
**Người Brâu** (còn gọi là **người Brạo**) là một dân tộc ít người sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt Nam Tiếng Brâu là một ngôn ngữ trong ngữ tộc
thumb|Một cụ ông người Katang mặc áo chui đầu, cổ xẻ và đóng khố **Người Katang** hay **người Kataang** (; ) là một dân tộc chủ yếu sống ở Nam Lào, và một số nơi
**Tiếng Brâu** hay _Brao_, là ngôn ngữ của người Brâu là một dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt Nam. _Tiếng Brâu_ là một ngôn ngữ
**Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo-Tai** hay **nhóm ngôn ngữ Nam Đảo-Thái**, là một liên hệ được đề xuất bao gồm các ngôn ngữ Nam Đảo (nói ở Đài Loan, Đông Nam Á hải đảo, Quần
**Tiếng Hrê** hay **tiếng H'rê** là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Ba Na Bắc thuộc ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á. Tiếng Hrê được sử dụng trong cộng đồng người Hrê ở
**Tiếng Wa** hay _tiếng Va_ () là ngôn ngữ của người Wa (người Va hay Ngõa) ở Myanmar và ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Tiếng Wa, theo phân loại gần đây thì thuộc ngữ
**Tiếng Bru** (còn gọi là Bruu, B'ru, Brou, Baru) là ngôn ngữ của người Bru - Vân Kiều, người Katang ở vùng Đông Nam Á. Tiếng Bru thuộc ngữ chi Cơ Tu (Katuic), ngữ tộc
**Tiếng Ơ Đu** là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer được nói ở Lào và Việt Nam. Nó có 900 người nói: 300 người ở Việt Nam (điều tra dân số năm 2009) và 600
**Kun Khmer** (tiếng Khmer: គុនខ្មែរ [kun kʰmae]) hay còn gọi là **Pradal Srey** (tiếng Khmer: ប្រដាល់សេរី [prɑɗal seːrəj]) là môn võ truyền thống của Campuchia có từ thời đại Angkor. Trong tiếng Khmer, từ _Kun_
**Nguồn gốc người Việt Nam** để chỉ nguồn gốc của các dân tộc sống ở Việt Nam. Hiện nay chỉ mới được xác định được nguồn gốc của một số dân tộc thiểu số mới
**Phân biệt chủng tộc ở châu Á** bắt nguồn từ những sự kiện đã xảy ra ở khắp nơi từ hàng ngàn năm trước cho đến nay. ## Bangladesh Vào năm 2015, Elias Mollah, thành
Mặc dù có quy mô không quá lớn so với các dân tộc khác tại Việt Nam, nhưng người Xtiêng đã hình thành nên một cộng đồng gắn kết với bản sắc riêng, trở thành
**Người M'Nông** theo cách gọi của Việt Nam và họ tự gọi dân tộc của họ là **Bu-Nông**. Theo phiên âm tiếng Khmer là **Phnong Đơm** nghĩa là Khmer cổ thời **Phù Nam**. Dân tộc
**Tiếng Jrai (Gia Rai)** là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Malay-Polynesia, được người Jrai tại Việt Nam và Campuchia sử dụng. Số lượng người nói tiếng Jrai là khoảng 332.557. Họ chủ yếu là
**Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam** (phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh thường gọi là **Việt Cộng**) là một tổ chức liên minh chính trị hoạt
**Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer** hoặc **Quân lực Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Forces Armées Nationales Khmères_ - FANK), là lực lượng quốc phòng vũ trang chính thức của nước Cộng hòa Khmer,
Lì Xì Tết Độc với bộ tiền thật 52 tờ tiền 28 nước trên thế giới được sưu tầm từ nhiều quốc gia trên thế giới các bạn ơi!Hãy gom hết may mắn của 28
**Đường mòn Sihanouk** là một hệ thống cung cấp hậu cần ở Campuchia được Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và quân du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Người Mường**, còn có tên gọi là **Mol**, **Moan**, **Mual**, là dân tộc sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Mường được công nhận là một thành viên
Người Môn là một trong những tộc người ở Myanmar. Trong quá khứ, người Môn ở Myanmar đã từng lập nên quốc gia riêng. Các quốc gia Hanthawaddy và Hanthawaddy Phục hưng được công nhân
**Người Mảng** (tên gọi khác: **Mảng Ư**, **Xá lá vàng**) là một dân tộc thiểu số cư trú ở bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam). Tại Việt Nam họ là một
**Người Rơ Măm** là một dân tộc ít người ở Việt Nam. Tộc người này cư trú chính tại làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Người Rơ Măm là một
**Mon** có thể chỉ đến: ;Địa danh: * Thị trấn Mon tại bang Nagaland, Ấn Độ * Huyện Mon của Nagaland, Ấn Độ * Đảo Møn của Đan Mạch * Bang Mon của Myanmar ;Dân
nhỏ|Thác Tad Fane, nằm ở cao nguyên Bolaven, có độ rơi khoảng 120 mét. nhỏ|Thác Tad Lo ở cao nguyên Bolaven, Lào. nhỏ|Xe chở gỗ trên cao nguyên Bolaven ở Nam Lào, vào tháng 6