✨Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu

Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu

Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu là một Nhóm ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á với chừng 1,3 triệu người nói, có mặt ở bán đảo Đông Dương. Paul Sidwell, một trong những chuyên gia hàng đầu về Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu, nhận thấy rằng những ngôn ngữ Môn-Khmer, bất kể thuộc nhóm nào, có vị trí địa lý càng gần với hai Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu và Ba Na thì càng có nhiều nét tương đồng từ vựng. Do hai nhóm Cơ Tu và Ba Na không có đặc điểm phát sinh chung nào, nên chúng không nằm cùng nhánh.

Phân loại

Năm 1966, hai nhà ngôn ngữ học SIL David Thomas và Richard Phillips thực hiện một nghiên cứu từ vựng thống kê nhiều ngôn ngữ Môn-Khmer ở Đông Dương. Nghiên cứu này giúp nhận diện hai nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer mới, là Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu và Nhóm ngôn ngữ Ba Na (Sidwell 2009). Tài liệu giúp phân loại chính xác các ngôn ngữ Cơ Tu chỉ mới xuất hiện vào thập niên 1990, khi mà Lào mở cửa cho các nhà ngôn ngữ học nước ngoài.

Sidwell (2005)

Phân loại dưới được đề xuất bởi Sidwell (2005). Sidwell (2005) ngờ vực giả thuyết Việt-Cơ Tu của Diffloth, cho rằng bằng chứng để chứng minh còn quá mơ hồ. Sidwell (2009) cho rằng nhánh Cơ Tu là phân nhánh nguyên thủy nhất, những nhánh còn lại đã phát sinh ra nhiều đặc điểm riêng hơn.

Cơ Tu (Thap): Cơ Tu (Cơ Tu Hạ, Lào) Phương (Cơ Tu Thượng, Việt Nam) Kui–Bru: Bru (Lào, Thái Lan) Kuy (Thái Lan) Pa Kô (Tareng) (Việt Nam, Lào) Tà Ôi–Kriang (Lào và Thừa Thiên-Huế, Việt Nam): Ngeq/Kriang (Khlor/Lor) Tà Ôi, Ir

Gehrmann (2019)

Gehrmann (2019) đề xuất cách phân loại nhóm Cơ Tu như sau. ;Proto-Cơ Tu Proto-Cơ Tu Tây Kuy Bru Proto-Pa Kô-Tà Ôi Tà Ôi Pa Kô Kriang Cơ Tu

Ethnologue còn liệt kê cả tiếng Kassang, nhưng ngôn ngữ này thuộc Nhóm ngôn ngữ Ba Na (Sidwell 2003). Lê Bá Thảo và đồng nghiệp (2014:294) ghi nhận một nhóm người nói ngôn ngữ Cơ Tu gọi là Ba-hi sống ở huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế, Việt Nam.

Tiếng Kuy và Bru mỗi tiếng có chừng nửa triệu người nói, còn cụm phương ngữ Tà Ôi có hơn 200.000 người nói.

Ngôn ngữ nguyên thủy

Ngôn ngữ Cơ Tu nguyên thủy, hoặc những nhánh con của nó, đã được một vài học giả phục dựng: Thomas (1967): A Phonology Reconstruction of Proto-East-Katuic Diffloth (1982): Registres, devoisement, timbres vocaliques: leur histoire en katouique Efinov (1983): Problemy fonologicheskoj rekonstrukcii proto-katuicheskogo jazyka Peiros (1996): Katuic Comparative Dictionary Therapahan L-Thongkum (2001): Languages of the Tribes in Xekong Province, Southern Laos Paul Sidwell (2005): The Katuic languages: classification, reconstruction and comparative lexicon

Sidwell (2005) phục dựng hệ thống phụ âm của ngôn ngữ Cơ Tu nguyên thủy (Proto-Katuic) như sau:

Điều này giống hệt với các phục dựng của tiếng Nam Á nguyên thủy, ngoại trừ âm được bảo tồn tốt hơn trong nhóm Cơ Tu so với các nhánh khác của hệ Nam Á mà Sidwell tin rằng cũng từng tồn tại trong tiếng Môn-Khmer nguyên thuỷ.

Đường đồng ngữ từ vựng

Paul Sidwell (2015:185–186) liệt kê các từ vựng đổi mới đặc trưng cho nhánh Cơ Tu đã thay thế các hình thái gốc trong tiếng Nam Á nguyên thủy.

Sidwell (2015:173) liệt kê các đường đồng ngữ từ vựng được chia sẻ giữa nhánh Cơ tu và nhánh Bahnar.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhóm ngôn ngữ Cơ Tu** là một Nhóm ngôn ngữ của ngữ hệ Nam Á với chừng 1,3 triệu người nói, có mặt ở bán đảo Đông Dương. Paul Sidwell, một trong những chuyên gia
**Nhóm ngôn ngữ Polynesia** hay **nhóm ngôn ngữ Đa Đảo** là một nhóm ngôn ngữ có mặt trong vùng địa lý Polynesia cùng một tập hợp đảo nằm ngoài tam giác Polynesia (từ trung nam
**Nhóm ngôn ngữ Sorb** được phân loại thuộc nhánh Slav của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Các ngôn ngữ này là những ngôn ngữ bản địa của người Sorb, một nhóm thiểu số dân Slav ở
**Tiếng Cơ Tu** (Katu, hoặc Katu Tây, Katu hạ), là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Cơ Tu trong ngữ hệ Nam Á. Đó là tiếng của người Cơ Tu cư trú ở nam Lào
**Nhóm ngôn ngữ Gbe** (phát âm ) là một tập hợp gồm khoảng 20 ngôn ngữ liên quan đến nhau hiện diện trên một khu vực kéo dài từ đông Ghana đến tây Nigeria. Số
**Nhóm ngôn ngữ Thái (Tai)** (còn gọi là **Nhóm ngôn ngữ Tráng-Thái**) là một Nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai. Nhóm ngôn ngữ này bao gồm các ngôn ngữ như tiếng Tráng, tiếng Bố
**Nhóm ngôn ngữ Việt** hay **Nhóm ngôn ngữ Việt-Chứt** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á. Trước đây người ta còn gọi Nhóm ngôn ngữ này là **Việt-Mường**, **Annam-Muong**, **Vietnamuong**, nhưng hiện nay nói
nhỏ|Phân bố lượng người sử dụng các ngôn ngữ Munda tại Ấn Độ **Nhóm ngôn ngữ Munda** là một nhánh của ngữ hệ Nam Á, được khoảng 9 triệu người ở miền trung và miền
**Nhóm** **ngôn ngữ Dogon** là một nhóm ngôn ngữ/ngữ hệ nhỏ, được nói bởi người Dogon ở Mali, thường được cho là thuộc về ngữ hệ Niger-Congo lớn hơn. Có khoảng 600.000 người nói hàng
**Nhóm ngôn ngữ Dard** (còn gọi là **Dardu** hoặc **Pisaca**) là một nhóm ngôn ngữ nhỏ thuộc ngữ chi Ấn-Arya nói ở mạn Bắc Gilgit-Baltistan và Khyber Pakhtunkhwa (Pakistan), Jammu và Kashmir (miền Bắc Ấn
**Nhóm ngôn ngữ Pamir** là một nhóm mang tính địa lý-dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Đông Iran, nói bởi người dân tại dãy núi Pamir, chủ yếu dọc theo sông Panj và các chi
**Nhóm ngôn ngữ Lô Lô**, còn gọi là **Di** ở Trung Quốc, nhóm **Ngwi** (Bradley 1997) hay nhóm **Nisu** (Lama 2012), là một nhóm gồm hơn 50 ngôn ngữ, hiện diện chủ yếu ở Vân
**Nhóm ngôn ngữ Bantu** (), chính xác hơn là **nhóm ngôn ngữ Bantu Hẹp** (ngược lại với "Bantu Rộng", một nhóm phân loại lỏng lẻo bao gồm cả những ngôn ngữ Bantoid khác), là một
thumb|Khẩu hiệu an toàn giao thông ở [[Kin, Okinawa, viết bằng tiếng Nhật (giữa) và tiếng Okinawa (trái và phải).]] là những ngôn ngữ bản địa ở quần đảo Lưu Cầu, phần viễn nam của
**Nhóm ngôn ngữ Khương**, trước đây gọi là **Nhóm ngôn ngữ Dzorgai**, là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng. Những ngôn ngữ này hiện diện ở miền đông nam Trung Quốc (Tứ Xuyên, Tây Tạng, Vân
**Nhóm ngôn ngữ Kwa**, thường được gọi là **New Kwa**, là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Niger-Congo nói ở đông nam Bờ Biển Ngà, trên toàn miền nam Ghana và ở miền trung
phải|nhỏ|[[Ngữ chi Ấn-Arya|Ngôn ngữ Ấn-Arya chính của Nam Á; Nhóm ngôn ngữ Ấn-Arya Bắc có màu tím]] **Nhóm** **ngôn ngữ Ấn-Arya Bắc,** còn được gọi là **nhóm** **ngôn ngữ Pahar,** là một nhóm các ngôn
nhỏ|295x295px| Người nói ngôn ngữ Miến bản ngữ và các ngôn ngữ Hán-Tạng khác theo Ethnologue **Nhóm ngôn ngữ Miến** là nhóm ngôn ngữ bao gồm tiếng Miến Điện chuẩn, tiếng Arakan và các phương
**Nhóm ngôn ngữ Bisaya** (còn gọi là **Visaya** hay **Binisaya**) là một nhóm ngôn ngữ ở Philippines, có quan hệ gần với tiếng Tagalog và nhóm ngôn ngữ Bikol (cả ba đều thuộc nhóm Trung
**Nhóm ngôn ngữ Kho-Bwa**, còn gọi là nhóm ngôn ngữ **Bugun** và **Kameng**, là một nhóm ngôn ngữ nhỏ ở Arunachal Pradesh, đông bắc Ấn Độ. Cái tên _Kho-Bwa_ do George van Driem (2001) đặt
**Nhóm ngôn ngữ Bahnar** là một nhóm 30 ngôn ngữ, được nói bởi chừng 700.000 người ở Việt Nam, Campuchia, và Lào. Hầu hết ngôn ngữ trong nhóm này đều khá điển hình cho ngữ
**Nhóm ngôn ngữ Philippines**, theo đề xuất của Zorc (1986) và Robert Blust (1991, 2005), là một nhóm gồm mọi ngôn ngữ của Philippines và bắc Sulawesi (trừ nhóm Sama–Bajaw, ngôn ngữ của người "Di-gan
**Nhóm ngôn ngữ Đông Iran** là một nhóm con của ngữ chi Iran nổi lên trong thời Iran Trung cổ (từ thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên). Tiếng Avesta thường được phân loại là
thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc ở Vân Nam, Trung Quốc [[Tập tin:Ethnolinguistic map of Burma 1972 en.svg|thumb|right|Bản đồ ngôn ngữ-dân tộc ở Myanmar ]] **Nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến** (trong tiếng Anh gọi là _Lolo-Burmese_
**Nhóm ngôn ngữ Samoyed** hay **ngữ chi Samoyed** là nhóm ngôn ngữ được nói ở cả hai bên dãy núi Ural, tại vùng cực bắc của lục địa Á Âu. Có 25.000 người sử dụng
**Nhóm ngôn ngữ Slav Đông** là một trong ba phân nhóm ngôn ngữ Slav, hiện được nói khắp Đông Âu, Bắc Á và vùng Kavkaz. Đây là nhóm ngôn ngữ Slav có đông người nói
**Nhóm ngôn ngữ Tạng** () là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng, bắt nguồn từ tiếng Tạng cổ, hiện diện trên một vùng rộng lớn giáp với tiểu lục địa Ấn Độ, gồm cao nguyên Thanh
**Nhóm ngôn ngữ Benue-Congo** (đôi khi được gọi là **Benue Đông-Congo**) là một phân nhóm chính của ngữ hệ Niger-Congo, hiện diện hầu như khắp châu Phi hạ Sahara. Nhóm này bao gồm 938 ngôn
**Nhóm** **ngôn ngữ Ấn-Arya Trung** hay **nhóm ngôn ngữ Hindi** là một nhóm các ngôn ngữ liên quan được sử dụng trên khắp miền bắc và miền trung Ấn Độ. Những ngôn ngữ này tạo
**Ngữ chi Oghuz** hay **Ngữ chi Thổ chung Tây Nam** là một nhánh của ngữ tộc Thổ chung thuộc ngữ hệ Thổ, được khoảng 108 triệu người sử dụng. Ba ngôn ngữ có số lượng
**Nhóm ngôn ngữ Inuit** là một nhóm các ngôn ngữ bản địa châu Mỹ khắng khít theo truyền thống được nói ở phần Bắc Mỹ thuộc vòng cực Bắc và ở một mức độ nào
**Nhóm ngôn ngữ Kipchak** (còn được gọi là **Kypchak**, **Qypchaq** hay **Turk Tây Bắc**) là một nhánh của ngữ hệ Turk được sử dụng bởi khoảng 31,3 triệu người ở phần lớn Trung Á và
**Nhóm ngôn ngữ Kru** thuộc ngữ hệ Niger-Congo, hiện diện trên một vùng kéo dài từ đông nam Liberia đến đông Bờ Biển Ngà. Nguồn gốc tên gọi "Kru" chưa được làm rõ. Theo Westermann
**Nhóm ngôn ngữ Senegambia** hoặc **Đại Tây Dương (Tây) Bắc** là một nhánh của ngữ hệ Niger-Congo tập trung ở Senegal (và Senegambia) và ở miền nam Mauritania, Guinea-Bissau và Guinée. Tuy nhiên, người Fula
**Yorubo** là một nhóm ngôn ngữ gồm 14 nhóm phương ngữ/ngôn ngữ liên quan, bao gồm nhóm Igala, được nói ở miền trung Nigeria, và nhóm Edekiri, được nói trên khắp Togo, Ghana, Bénin và
phải|nhỏ| Châu tự trị Văn Sơn ở Vân Nam, Trung Quốc **Nhóm ngôn ngữ Mondzi** (**Mangi**) là một nhóm nhỏ các ngôn ngữ của nhóm ngôn ngữ Lô Lô-Miến trong phân loại Lama (2012). Nhóm
**Nhóm ngôn ngữ Boro–Garo** là một nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng, nói chủ yếu ở Đông Bắc Ấn Độ và Bangladesh. Nhóm Boro–Garo chia làm bốn nhóm con: Boro, Garo, Koch, Deori. Trong lịch sử, các
**Nhóm ngôn ngữ Đại Tây Dương-Congo** là một bộ phận chính, cốt lõi của ngữ hệ Niger-Congo của Châu Phi, đặc trưng bởi hệ thống lớp danh từ điển hình. Chúng bao gồm hầu hết
**Bihar** là nhóm ngôn ngữ miền tây của các ngôn ngữ Đông Ấn-Arya, chủ yếu được nói ở các bang Bihar, Jharkhand, Tây Bengal và Uttar Pradesh của Ấn Độ và cả ở Nepal. Mặc
**Nhóm ngôn ngữ Nicobar** là một nhánh ngôn ngữ Nam Á có mặt trên quần đảo Nicobar, và là tiếng nói của đa phần cư dân tại đây. Nhóm ngôn ngữ này có hơn 30.000
**nhóm ngôn ngữ Môn** là một nhóm ngôn ngữ trong ngữ hệ Nam Á, bắt nguồn từ tiếng Môn cổ của vương quốc Dvaravati tại nơi ngày nay là trung bộ Thái Lan. Người Môn
**Nhóm ngôn ngữ Mã Lai (Malay)** là một nhánh của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Thành viên nổi bật nhất là tiếng Mã Lay chuẩn, ngôn ngữ quốc gia của
**Nhóm ngôn ngữ Athabaska** (cũng viết là _Athabasca_, _Athapaska_ hoặc _Athapasca_, và còn được gọi là **nhóm ngôn ngữ Dené**) là một nhóm ngôn ngữ bản địa lớn ở Bắc Mỹ, hiện diện ở mạn
nhỏ|270x270px|Nhóm ngôn ngữ Rôman (đơn giản hóa)|liên_kết=Special:FilePath/Romance_languages_improved.PNG **Nhóm ngôn ngữ Tây Rôman** là một trong hai phân nhánh của nhóm ngôn ngữ Rôman được đề xuất dựa trên tuyến La Spezia-Rimini. Chúng bao gồm các
Nhóm ngôn ngữ **Mã Lay-Đa Đảo Trung Tâm-Đông** (CEMP) tạo thành một nhánh được đề xuất của ngữ tộc Mã Lay-Đa Đảo bao gồm hơn 700 ngôn ngữ (R. 1993). ## Phân bố Nhóm ngôn
**Nhóm ngôn ngữ Nin** là một nhóm ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Đông Sudan được sử dụng trên một khu vực rộng lớn giữa Nam Sudan và Tanzania bởi các dân tộc Nin, những
**Nhóm ngôn ngữ Gyalrong** (còn được gọi là _Jiarong_), là một nhánh của nhóm ngôn ngữ Khương của ngữ hệ Hán-Tạng, mặc dù Randy LaPolla (2003) cho rằng nó có thể là một phần
**Nhóm ngôn ngữ Tani** (tên thay thế là **nhóm ngôn ngữ** **Miri**, _Adi-Galo-Mishing-Nishing-Tagin_ (Bradley 1997), hay _Aborifer-Miri-Dafla_ (Matisoff 2003)), là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Hán-Tạng được nói chủ yếu ở Arunachal Pradesh,
**Nhóm ngôn ngữ Rhaetia-Rôman** hay **Rhaetia** là một nhóm ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Rôman được nói ở bắc và đông bắc Ý và ở Thụy Sĩ. Cái tên "Rhaetia-Rôman" dùng để chỉ tỉnh
**Nhóm ngôn ngữ Asli** là một nhóm ngôn ngữ Nam Á, hiện diện trên bán đảo Mã Lai. Chúng là ngôn ngữ của một bộ phận _Orang Asli_, những cư dân nguyên thủy của bán