✨Nguyễn Phúc Bảo Long

Nguyễn Phúc Bảo Long

Nguyễn Phúc Bảo Long (chữ Hán: 阮福保隆; 4 tháng 1 năm 1936 – 28 tháng 7 năm 2007) là vị hoàng thái tử cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Ông là đích trưởng tử của Bảo Đại và Nam Phương hoàng hậu. Ông có một em trai là Bảo Thăng, ba cô em gái là Phương Mai, Phương Liên và Phương Dung, tất cả đều sống ở Pháp.

Tiểu sử

Thời thơ ấu

Bảo Long được sinh ra vào đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936 tại điện Kiến Trung trong Đại nội Huế. Ngày 7 tháng 3 năm 1939, Bảo Long được phong hoàng thái tử khi mới 3 tuổi và bắt đầu học với nhà văn Ưng Quả, vị hoàng thân uyên bác thuộc phủ Tuy Lý Vương.

Theo tư liệu của một giáo sư sử học Công giáo cho biết "Bảo Long đã được chịu phép rửa tội (âm thầm) và được đặt tên theo bổn mạng (tên Thánh) là Phillipe". Một trong ba thầy dạy (Thái phó precepteur du prince) của Bảo Long từ năm 4 tuổi cho tới khi khôn lớn, tại trường D’Adran Đà Lạt, đã khẳng định sự việc nói trên là đúng.

Bảo Đại thì không giấu diếm gì việc cho hoàng tử Bảo Long đi học trường bên đạo. Bảo Đại không đắn đo gì về việc này vì cho rằng đó là trường tốt nhất thực hành nền giáo dục phương Tây, trong lúc ở Trung Kỳ không có trường nào dạy dỗ trẻ em tốt hơn các trường học do nhà thờ tổ chức.

Theo vị cận thần của vua Bảo Đại là Nguyễn Đệ, nguyên Đổng lý văn phòng của Bảo Đại và con gái là nữ tu Nguyễn Thị Nghĩa, dòng kinh sĩ Thánh Augustino thì Hoàng hậu Nam Phương vốn là cựu học sinh trường dòng Couvent des Oiseaux, Paris nên rất mộ đạo. Mỗi tối Bảo Long phải vào phòng mẹ cùng đọc kinh cầu nguyện. Còn hàng tuần có linh mục tới làm lễ riêng cho Nam Phương Hoàng hậu dự lễ cùng Bảo Long. Vì vậy ngay từ nhỏ Bảo Long đã thuộc kinh bổn đạo Chúa rất thành thạo và siêng đọc kinh cầu nguyện với mẹ. Những lúc nói chuyện bằng tiếng Pháp là những lời bà Nam Phương dạy con về luật giữ đạo, về tín điều của Đạo công giáo.

Bảo Long ở cách cung Diên Thọ của Thái hậu Từ Cung vài trăm mét. Mỗi lần đến, Bảo Long ngồi cáng, sáu thị vệ theo hầu và phải mặc nam phục áo dài thêu, quần lụa, khăn đóng. Mỗi lần đến thăm bà nội, mỗi đứa cháu đều mang phẩm vật biếu bà, thường là lụa và đồ sơn mài. Thái hậu ngồi đợi các cháu trong căn phòng lớn vừa làm chỗ chơi bài vừa ngủ. Bà ngồi trên một chiếc ghế bành rộng. Các cháu đến không được ôm hôn mà phải chắp tay lạy bà theo kiểu Việt Nam. Sau đó là bà hôn trán mỗi cháu. Đó là kiểu hôn ở An Nam.

Cuộc trò chuyện bắt đầu giữa bà Hoàng Thái hậu và con dâu vì Hoàng hậu Nam Phương bao giờ cũng đi với các con mỗi khi đến vấn an bà. Các con đều không dự buổi trò chuyện hoặc chỉ ngồi một lát rồi chạy đi chỗ khác, vì không quen với cách nói dài dòng của người lớn trong cung cấm và không hiểu tiếng Việt. Bà Nam Phương vừa giảng giải vừa dịch sang tiếng Pháp. Bảo Long lớn lên cùng với các em trong khung cảnh gia đình không nói tiếng Việt trong một thời gian dài.

Các cuộc đi thăm Thái hậu chủ yếu là hành vi qui ước. Bọn trẻ thấy chán chỉ mong chóng đến giờ về. Trong khi chờ đợi người lớn nói chuyện, bọn trẻ tha hồ ăn hoa quả và hàng núi kẹo bánh được chuẩn bị sẵn cho chúng nhưng không được nô đùa, không được làm gì nếu không được người lớn cho phép và chỉ dẫn.

Trong sinh hoạt gia đình, trừ khi nói chuyện với Hoàng thái hậu, vợ chồng con cái đều giao tiếp với nhau bằng tiếng Pháp. Hơn thế nữa về mặt phép tắc trong nội cung, không bao giờ Vua, Hoàng hậu và các con trao đổi trò chuyện với người hầu.. Từ đó, chính quyền sở tại luôn cho hẳn một toán an ninh bảo vệ Bảo Long, riêng Bảo Long không dám đi xe riêng nữa mà phải đổi xe luôn để phòng ngừa.

Sau vụ âm mưu bắt cóc, cảnh sát vẫn giám sát chặt chẽ hành trạng của Bảo Long. Thường chỉ có một nhân viên được phân công luôn luôn kèm sát thái tử để bảo vệ, là thanh tra Tổng nha tình báo Chabrier. Ông ngủ luôn ở phòng liền kề, thông với phòng ngủ của Bảo Long, có thể nhanh chóng can thiệp khi có chuyện. Hằng ngày, ông theo Bảo Long đến trường, chiếm một chỗ ngồi cuối lớp nhưng không phải để nghe giảng bài mà chỉ chăm chăm theo dõi nhất cử nhất động của thái tử. Ban đầu, các bạn học ngạc nhiên thấy hôm nào cũng có một người lớn tuổi có mặt trong lớp nhưng cũng quen dần. Mỗi khi Bảo Long ra ngoài, dù trên máy bay hay xe lửa, Chabrier luôn luôn đi bên cạnh. Những hôm Bảo Long lái xe đi chơi xa, người ta thấy ông ghì chặt tay lái chiếc xe 203 bám theo xe của Bảo Long. Nhưng khi ông về nghỉ với gia đình ở Paris, Cannes hay Valberg, thì lập tức đã có cảnh sát địa phương thay thế.

Sau khi học xong phổ thông ở Collège des Roches, ông theo học khoa học chính trị ở Lycée Condorcet, Paris

Năm Bảo Long 18 tuổi, đã có lần ngỏ lời với cha mẹ là muốn gia nhập trường Võ bị Đà Lạt tại Việt Nam. Nhưng Bảo Đại không cho và bắt phải nhập ngũ trường võ bị của người Pháp. Tuy vậy Bảo Đại cũng cho Bảo Long vận quân phục ngự lâm của Việt Nam và mang hàm đại tá để chụp ảnh in lên con tem phát hành tại Việt Nam vào năm 1953. Sự thật Bảo Long chưa là sĩ quan Ngự Lâm Quân bao giờ, mà chỉ mặc quân phục có một giờ để chụp ảnh. được phong Trung tá Danh dự của Trung đoàn Ngự lâm Quân và Đại tá Danh dự của Vệ Binh Hoàng gia.

Việc một hoàng thái tử đi lính nước ngoài này đã gây nên những lời phê phán từ Nguyễn Phước tộc và nhiều người Việt khác.

Khoảng năm 1953, hệ thống bưu chính của Quốc gia Việt Nam có cho in một bộ tem với hình ảnh người trên tem thư là Bảo Long, nó gồm có hai bộ: một bộ Bảo Long mặc áo ngũ thân và một bộ mặc quân phục Ngự Lâm Việt Nam.

giữa|nhỏ|Nguyễn Phúc Bảo Long trên tem thư (bộ mặc áo ngũ thân) giữa|nhỏ|Nguyễn Phúc Bảo Long trên tem thư (bộ mặc quân phục)

Chú giải

Mục lục tham khảo

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Phúc Bảo Long** (chữ Hán: 阮福保隆; 4 tháng 1 năm 1936 – 28 tháng 7 năm 2007) là vị hoàng thái tử cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Phúc Bảo Thăng** (chữ Hán:**阮福保陞**, 30 tháng 9 năm 1943 – 15 tháng 3 năm 2017), là đích tử của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương. Ông theo mẹ là Nam Phương
**Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc** (1923 – 2009), thường được gọi tắt là **Vĩnh Lộc**, nguyên là một tướng lĩnh Thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Phúc Dương** (chữ Hán: 阮福暘; 1759? - 1777), hiệu **Tân Chính vương**, là nhà cai trị thứ 10 của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào thời kỳ Lê trung hưng trong lịch
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Nguyễn Phúc Tần** (chữ Hán: 阮福瀕, 18 tháng 7 năm 1620 - 30 tháng 4 năm 1687), hay **Nguyễn Thái Tông**, tước hiệu **Dũng Quận công** (勇郡公), và được người trong lãnh thổ gọi là
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Nguyễn Phúc Lan** (chữ Hán: 阮福瀾, 13 tháng 8 năm 1601 - 19 tháng 3 năm 1648) hay **Nguyễn Thần Tông**, **Chúa Thượng** là vị chúa Nguyễn thứ ba của chính quyền Đàng Trong trong
:_Để tránh nhầm lẫn với một hoàng tử con vua Minh Mạng có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Miên Bảo (sinh 1835)._ **Nguyễn Phúc Miên Bảo** (về sau đọc trại thành **Bửu**) (chữ Hán:
**Nguyễn Phúc Hồng Bảo** (chữ Hán: 阮福洪保, 1825 - 1854), còn hay gọi **An Phong công** (安豐公), là con trưởng của Nguyễn Hiến Tổ Thiệu Trị hoàng đế, vị Hoàng đế thứ ba của triều
**Nguyễn Phúc Chú** (chữ Hán: 阮福澍, 1697-1738) hay **Trú** hay **Thụ** trấn Hà Tiên, để giữ gìn và mở mang xứ ấy. Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12 (1737), triều đình định lại quan
**Thọ Xuân Vương** (chữ Hán: 壽春王; 5 tháng 8 năm 1810 - 5 tháng 11 năm 1886), biểu tự **Minh Tỉnh** (明靜), hiệu **Đông Trì** (東池), là hoàng tử nhà Nguyễn, một hoàng thân có
**Nguyễn Phúc Quang** (chữ Hán: 阮福㫕, 10 tháng 9 năm 1811 – 29 tháng 6 năm 1845), tước phong **An Khánh vương** (安慶王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
**Nguyễn Phúc Đài** (chữ Hán: 阮福旲; 5 tháng 10 năm 1795 – 14 tháng 11 năm 1849), tước phong **Kiến An vương** (建安王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Phước Mỹ Đường** (阮福美堂, 1798 - 1849), còn có tên là **Nguyễn Phước Đán** (阮福旦) là hoàng thân nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, là đích trưởng tôn của Hoàng đế Gia Long.
**Nguyễn Phúc Bính** (chữ Hán: 阮福昞; 6 tháng 9 năm 1797 – 16 tháng 8 năm 1863), tước phong **Định Viễn Quận Vương** (定遠郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
Thành lập năm 2007, Khởi Nguyên Phúc luôn dẫn đầu trong lĩnh vực thiết kế và thi công xây dụng các công trình dân dụng tại Tp. Long Xuyên và các tỉnh lân cận trong
**Nguyễn Phúc Hồng Cai** (chữ Hán: 阮福洪侅; 13 tháng 12 năm 1845 – 15 tháng 5 năm 1876), tôn hiệu **Kiên Thái vương** (堅太王), là một hoàng tử con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn** (chữ Hán: 阮福永𧯢, 1914 - ?) là Hoàng thân triều Nguyễn. Ông là cháu cố của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, là cháu nội của Kiên Quận công Nguyễn
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Xuyến** (chữ Hán: 阮福玉玔; 20 tháng 10 năm 1792 – 1851),
**Nguyễn Phúc Ngọc Anh** (chữ Hán: 阮福玉瑛; 1790 – 1850), phong hiệu **Bảo Lộc Công chúa** (保祿公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Ngọc Cầu** (chữ Hán: 阮福玉球; 1734 – 8 tháng 7 năm 1804), là một Công nữ, đồng thời là một cung tần của Chúa Nguyễn Phúc Khoát trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Nguyễn Phúc Ngọc Tú** (chữ Hán: 阮福玉琇; 1759 – 1823), phong hiệu **Long Thành Công chúa** (隆城公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Hy** (chữ Hán: 阮福曦; 1782 – 21 tháng 5 năm 1801), tước phong **Thuận An công **(順安公), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Phúc Kỳ** (chữ Hán: 阮福淇, ? - 22 tháng 7, 1631), về sau gọi là **Tôn Thất Kỳ** (尊室淇) hay **Ông Hoàng Kỳ**, là một vị thế tử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng
**Nguyễn Phúc Điển** (chữ Hán: 阮福晪; ? – 1783), tước phong **Thông Hoá Quận vương** (通化郡王), là một hậu duệ của chúa Nguyễn và là em của vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử
**Nguyễn Phúc Cự** (chữ Hán: 阮福昛; 2 tháng 10 năm 1810 – 11 tháng 8 năm 1849), tước phong **Thường Tín Quận Vương** (常信郡王), là một hoàng tử con vua Gia Long nhà Nguyễn trong
**Nguyễn Phúc Bửu Thạch** (Hán Nôm: **阮福寶石**), là tôn thất, đồng thời là quan chức triều Nguyễn. Ông là cháu nội của Thụy Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y (阮福洪依), con của Kiến Thụy quận
:_Bài này viết về hoàng tử con vua Gia Long, về công tử có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Mão** (chữ Hán: 阮福昴; 25 tháng 10 năm 1813 – 18 tháng
**Nguyễn Phúc Ngọc Quỳnh** (chữ Hán: 阮福玉瓊; 1788 – 1849), phong hiệu **Bình Hưng Công chúa** (平興公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
:_Bài này viết về công chúa con vua Gia Long, về công nữ có cùng tên gọi, xem Nguyễn Phúc Khoát._ **Nguyễn Phúc Ngọc Cơ** (chữ Hán: 阮福玉璣; 13 tháng 9 năm 1808 – 1856),
**Nguyễn Phúc Quân** (chữ Hán: 阮福昀; 20 tháng 8 năm 1809 – 26 tháng 5 năm 1829), tước phong **Quảng Uy Công** (廣威公) (được đọc trại **Quảng Oai Công**), là một hoàng tử con vua
**Nguyễn Phúc Ngọc Trân** (chữ Hán: 阮福玉珍; 1790 – 1819), phong hiệu **Phú Triêm Công chúa** (富霑公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Ngọc Châu** (chữ Hán: 阮福玉珠; 1782 – 1847), phong hiệu **Bình Thái Công chúa** (平泰公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Nguyễn Phúc Miên Thủ** (chữ Hán: 阮福綿守; 5 tháng 3 năm 1819 – 24 tháng 9 năm 1859), tự là **Thị Phủ** (是甫), hiệu là **Thận Trai** (慎齋), tước phong **Hàm Thuận công** (咸順公), là
**Nguyễn Phúc Miên Hoành** (chữ Hán: 阮福绵宏; 12 tháng 7 năm 1811 – 23 tháng 11 năm 1835), trước có tên là **Nguyễn Phúc Thự** (阮福曙). Ông là người con thứ hai của bà Hiền
**Nguyễn Phúc Miên Triện** (chữ Hán: 阮福綿𡩀; 19 tháng 7 năm 1833 – 7 tháng 5 năm 1905), biểu tự **Quân Công** (君公), hiệu **Ước Đình** (約亭), tước phong **Hoằng Hóa Quận vương** (弘化郡王), là
**Nguyễn Phúc Anh** (chữ Hán: 阮福渶, 1601 - 1635), còn gọi là **Tôn Thất Anh**, là một vị tướng dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh trong lịch sử Việt Nam. Lúc sinh thời ông
**Nguyễn Phúc Nhu Thục** (chữ Hán: 阮福柔淑; 16 tháng 12 năm 1819 – 1886), phong hiệu **An Cát Công chúa** (安吉公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Phúc Châu Hoàn** (chữ Hán: 阮福珠環; 1883 – ?), thường được gọi là **Bà Chúa Tám**, phong hiệu **Tân Phong Công chúa** (新豐公主), là một trong tám vị công chúa, con vua Dục Đức
**Nguyễn Phúc Phương Mai** (1 tháng 8 năm 1937 – 16 tháng 1 năm 2021), phong hiệu Thái Công tước Phu nhân xứ Addis Ababa và Thái Hầu tước Phu nhân xứ Sabotino, là con
**Nguyễn Phúc Miên Mật** (chữ Hán: 阮福綿宓, 17 tháng 8 năm 1825 – 23 tháng 5 năm 1847), hiệu là **Vân Đình** (芸亭), tước phong **Quảng Ninh Quận vương** (廣寧郡王), là một hoàng tử con
nhỏ|196x196px|Chân dung Bà Chúa Nhất **Nguyễn Phúc Tốn Tùy** (còn có âm đọc là **Tôn Thụy**) (chữ Hán: 阮福巽隨; 1872 – 1964), thường được gọi là **Bà Chúa Nhất**, phong hiệu **Mỹ Lương Công chúa**
**Nguyễn Phúc Nhu Thuận** (chữ Hán: 阮福柔順; 21 tháng 4 năm 1819 – 18 tháng 10 năm 1840), phong hiệu **Phong Hòa Công chúa** (豐禾公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Phúc Dĩ Hy** (chữ Hán: 阮福以嬉; k. 1887 – 1907), thường bị gọi nhầm là **Hỷ Hỷ**, phong hiệu **Ngọc Sơn Công chúa** (玉山公主), là một công chúa con vua Đồng Khánh nhà Nguyễn