✨Nguyễn Lân Tuất

Nguyễn Lân Tuất

Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Lân Tuất Một năm sau, ông bị thương và được cử sang Trung Quốc để học tiếng Trung trong mấy năm. Sau khi về nước, ông làm phiên dịch viên tại Sở chỉ huy Sư đoàn Phòng không số 1 và bắt đầu sáng tác âm nhạc. Ban đầu, ông chỉ dùng cây đàn guitar để thẩm âm, chọn giai điệu và tập luyện với một dàn hợp xướng nghiệp dư của quân đội. Người ta đã phát hiện ra ông và mời ông đến đài phát thanh để làm việc. Tại đây, ông đã sáng tác và dàn dựng nhiều bài hát cho trẻ em miền Bắc Việt Nam khi đó. Nhưng phần lớn các tác phẩm ấy đều khuyết danh. Nửa thế kỷ sau, một số bài hát vẫn còn được sử dụng nhưng không ai biết tên tác giả của chúng, thậm chí còn quên cả tên bài hát. Đơn giản là những cái tên ấy đã bị lãng quên nhưng âm nhạc thì vẫn còn đó.

Năm 1959, ông được cử sang Liên Xô tu nghiệp. Nguyễn Lân Tuất bắt đầu một cuộc sống mới và không hề biết rằng ông không có cơ hội trở về. Tại Leningrad, ông gặp Svetlana Kurbetova, một nghệ sĩ dương cầm sau này trở thành vợ ông. Bà cũng là người đầu tiên biểu diễn các tác phẩm của ông trên sân khấu, là người bạn trung thành nhất và cũng là vị "giám khảo" nghiêm khắc nhất khi phán xét về những tác phẩm của ông.

Vào năm 1960, quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô xấu đi. Nguyễn Lân Tuất không phải là người cộng sản, cũng không phải là người bất đồng chính kiến. Ông không chống lại hay ủng hộ chủ nghĩa xét lại. Năm 1961, ông được lệnh về nước để cải tạo tư tưởng nhưng ông quyết định nghỉ học và ở lại Liên Xô và có thời gian, ông phải đi trốn. Tại Việt Nam, ông bị xem là "kẻ đào ngũ", "Việt gian", "theo Liên Xô chống Trung Quốc", bị truy nã và bị yêu cầu dẫn độ về Việt Nam vì tội "theo chủ nghĩa xét lại". Đến 30 năm sau ông mới lại được trở về Việt Nam một cách hợp pháp.

Ông tốt nghiệp Đại học âm nhạc tại Leningrad ngành sáng tác, 1965-1970. Năm 1980, nhận văn bằng Thạc sĩ. Từ năm 1984, sau khi làm nghiên cứu sinh tại Đại học Sân khấu - Âm nhạc và điện ảnh Leningrad, ông sống ở Novosibirsk và công tác tại Viện Hàn lâm âm nhạc Novosibirsk.

Cuối thập niên 1980, ông nhận quốc tịch Liên Xô và xin gia nhập Hội Nhạc sĩ Liên Xô, nhưng đơn của ông bị từ chối với lý do "thiếu chuyên nghiệp". Nhờ quen biết với nhạc sĩ Aleksey Nikolaev, bí thư của Hội Nhạc sĩ Nga, đơn của ông lại được chấp nhận.

Nguyễn Lân Tuất tâm sự:

Nhưng đến khi mà Nguyễn Lân Tuất được vinh danh Nghệ sĩ công huân Nga thì ông Nguyễn Lân đã không còn cười nhạo nữa. Và ông không còn sống để chứng kiến việc con ông được trao danh hiệu "Vinh danh nước Việt" của báo điện tử VietnamNet vào năm 2005.

Ngày 21 tháng 9 năm 2009, hai tuần trước khi tròn 75 tuổi, Nguyễn Lân Tuất đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học với đề tài "Sân khấu truyền thống Việt Nam hiện đại" tại Trường Đại học sư phạm Quốc gia Liên bang Nga ở Sankt-Peterburg. Ông đã phá kỷ lục người có tuổi cao nhất bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học tại học viện này. Ông cũng trở thành người đầu tiên và duy nhất có học hàm Tiến sĩ khoa học trong ngành sân khấu ở Việt Nam

Đời tư

Vợ của ông là phó giáo sư - cũng nghệ sĩ công huân Liên bang Nga Svetlana Kurbetova. Gia đình ông hiện có nhiều người cùng hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Ngoài vợ ông, con gái ông Natalia là nghệ sĩ đàn organ Nhà hát thành phố Novosibirsk. Cháu ngoại ông, Alina tham gia trong một ban nhạc rock của thành phố. Gia đình ông là một trong hai gia đình ở tỉnh Novosibirsk có cả chồng lẫn vợ đều là nghệ sĩ công huân nước Nga.

  • Giao hưởng số 3 Tiếng hát trong tù (1989)
  • Giao hưởng số 4 Gửi người yêu nơi xa (1995)
  • Giao hưởng số 5 Đời nghệ sĩ (2013, chưa hoàn thành)
  • Các công trình nghiên cứu: Sân khấu truyền thống Việt Nam.
  • Sáng tác một số ca khúc gồm lời Nga và lời Việt, trong đó phổ biến nhất là bài "Người con gái Việt", "Như một cánh diều", "Biển miền Nam quê hương em".
  • Và một số ca khúc Nga và Việt

Nhận xét

::* "Nhạc sĩ Lân Tuất không viết nhiều ca khúc, mà thành tựu chủ yếu trong cuộc đời sáng tác của ông là ở lĩnh vực khí nhạc (nhạc không lời), đặc biệt là giao hưởng". Báo điện tử Đài Tiếng Nói Việt Nam.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Giáo sư, tiến sĩ khoa học **Nguyễn Lân Tuất** Một năm sau, ông bị thương và được cử sang Trung Quốc để học tiếng Trung trong mấy năm. Sau khi về nước, ông làm phiên
**Nguyễn Lân** (14 tháng 6 năm 1906 – 7 tháng 8 năm 2003) là một giáo viên, người biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có
**Nguyễn Lân Hiếu** (sinh ngày 14 tháng 9 năm 1972) là bác sĩ, phó giáo sư, tiến sĩ y khoa, chính trị gia người Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa
**Nguyễn Lân Cường** là nhà khảo cổ học, nhà giáo, nhà nhân chủng học, nhạc trưởng, nhạc sĩ người Việt Nam. Nguyễn Lân Cường sinh ngày 23 tháng 12 năm 1941, Ông là con thứ
**Nguyễn Lân Hùng** (sinh năm 1945) là một chuyên gia nông nghiệp của Việt Nam. Ông từng là giảng viên chính khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện nay ông là
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm
**Trường Đại học Sư phạm** (tiếng Anh: _Thai Nguyen University of Education_) là một trường đại học thành viên của Đại học Thái Nguyên. Trường có vai trò là trung tâm đào tạo đại học,
**Nguyễn Công Trứ** (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858), tự **Tồn Chất**, hiệu **Ngộ Trai**, biệt hiệu **Hi Văn**, là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông
**Nguyễn Văn Trỗi** (1 tháng 2 năm 1940 – 15 tháng 10 năm 1964) là một chiến sĩ biệt động thành phố Sài Gòn, đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đã
**Bá Nhan** (chữ Hán: 伯颜, chữ Mông Cổ: ᠪᠠᠶᠠᠨ, chuyển ngữ Poppe: Bayan, chữ Kirin: Баян, 1236 – 11/01/1295), người Bát Lân bộ (Baarin), dân tộc Mông Cổ, là tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Hiệu** (; 1674 - 1735) là một đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông nguyên tên là **Phan Công Sứ**, người làng Lan
**Nguyễn Văn Tuyên** (chữ Hán: 阮文瑄, 1834 - 1902), tự **Trọng Hiệp** (仲合), hiệu **Kim Giang** (金江), biệt hiệu **Quế Bình Tử** (桂坪子) là một quan đại thần triều Nguyễn, trải bảy đời vua từ
**Nguyễn Trí Phương** (1800-1873) là một đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn. Ông là vị Tổng chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
**Nguyễn Thành Ý** (chữ Hán: 阮誠意, 1820-1897), tự là **Thiện Quan**, hiệu là **Túy Xuyên**, là một quan đại thần triều Nguyễn. Ông được xem là vị lãnh sự ngoại giao đầu tiên của Đại
**Thừa Thiên Cao Hoàng hậu** (chữ Hán: 承天高皇后, 19 tháng 1 năm 1762 - 22 tháng 2 năm 1814), tên thật là **Tống Thị Lan** (宋氏蘭), là người vợ nguyên phối và Chánh cung Hoàng
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Hoàn** (Chữ Hán: 阮俒; 1713–1792) tự là Thích Đạo, là đại thần, nhà Sử học và nhà Thơ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Hoàn là con
**Nguyễn Như Đổ** (chữ Hán: 阮如堵; 1424 - 1526), biểu tự **Mạnh An** (孟安), hiệu **Khiêm Trai** (謙齋), là nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà thơ, nhà giáo dục thời Lê sơ trong lịch
phải **Nguyễn Bá Nghi** (阮伯儀, 1807-1870), hiệu là **Sư Phần**, là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhiều người biết đến từ khi được cử vào Nam thay thế
**Nguyễn Hữu Lập**, tự **Nọa Phu**, hiệu **Thiếu Tô Lâm tiên sinh**, quê ở làng Trung Cần, xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, Ông sinh ra trong một gia đình có truyền
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Quang Thùy** (chữ Hán: 阮光垂; ? – 1802), là con vua Quang Trung và là _Tiết chế thủy bộ chư quân miền Bắc_ của nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu
nhỏ|Chân dung Đỗ Quang**Đỗ Quang** (Chữ Nho: 杜光; 1807-1866), trước có tên là **Đỗ Tông Quang**, sau bỏ chữ _Tông_ vì kị húy vua Thiệu Trị. Ông làm quan trải ba triều vua: Minh Mạng,
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1771–1785)** là giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Cuộc chiến tranh này bắt đầu khi các lực lượng nổi dậy của 3
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Nguyễn Bá Lân** (阮伯麟, 1700-1785) là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với Đoàn Trác Luân (anh trai nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), Ngô
**Nguyễn Thiếp** (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô,
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Nguyễn Lữ** (chữ Hán: 阮侶; 1754–1787) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Lữ** (chữ Hán: 阮文侶) là một chính trị gia và nhà quân sự Việt Nam ở thế kỷ 18. Ông là 1 trong
**Nguyễn Hữu Huân** (chữ Hán 阮有勳, 1830-1875) là một sĩ phu yêu nước và là một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào nửa cuối thế kỷ 19.
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Nguyễn Hy Quang** (1634-1692), húy **Vẹ**, tự **Hy Quang**, là một nhà giáo, đại thần nhà Lê trung hưng đã phụ đạo cho Thái phó Lương Mục Công Trịnh Vịnh, đích tôn của chúa Trịnh
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của
**Nguyễn Huy Cẩn** hay **Nguyễn Huy Cận** (1729-1790) là chí sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Nguyễn Huy Cẩn người làng Sủi, tức Phú Thị, xã Phú Thị,
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Sinh Sắc** (chữ Nho: 阮生色, còn gọi là **Nguyễn Sinh Huy** (阮生輝); sách báo thường gọi bằng tên **cụ Phó bảng**; **cụ Sắc**, 1862 – 27 tháng 11, 1929) là cha ruột của Chủ
**Nguyễn Phúc Hồng Tập** (阮福洪槢, ? - 1864) gọi tắt là **Hồng Tập**, khi bị tội phải cải sang họ mẹ nên được gọi là **Võ Tập** hay **Vũ Tập** (武槢); là con trai của
**Nguyễn Thân** (chữ Hán: 阮紳, 1854–1914), biểu tự **Thạch Trì** (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong
**Nguyễn Viên** (1752-1804) là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Nguyễn Viên quê làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, sinh ra trong một gia
**Tôn Thất Hiệp** còn có tên là **Tôn Thất Cáp** (尊室鉿, 01 tháng 01, 1809– 12 tháng 04, 1862), là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự
**Nguyễn Dục** (1807-1877), tự: **Tử Minh**; là danh thần triều Nguyễn và là nhà giáo Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Dục** là người làng Chiên Đàn, tổng Chiên Đàn Trung, huyện Hà Đông, phủ