✨Nguyễn Bá Nghi

Nguyễn Bá Nghi

phải Nguyễn Bá Nghi (阮伯儀, 1807-1870), hiệu là Sư Phần, là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhiều người biết đến từ khi được cử vào Nam thay thế tướng Nguyễn Tri Phương, lo việc cản ngăn thực dân Pháp, nhưng trước sau chỉ thấy (ông) nghị hòa.

Thân thế và sự nghiệp

Nguyễn Bá Nghi sinh năm Đinh Mão (1807), người làng Thời Phố (sau đổi là Lạc Phố), huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

Năm Tân Mão (1831), dưới thời Minh Mạng (1820-1840), ông thi đỗ cử nhân, tại trường Hương Thừa Thiên, và năm sau (1832) đỗ luôn phó bảng.

Buổi đầu, ông làm Tri huyện, sau thăng Tri phủ. Nhờ có tiếng là ngay thẳng, ông được trao chức Thự Án sát tỉnh Vĩnh Long. Tại đây có lần xử án, ông chưa làm hết trách nhiệm, nên bị cách chức một thời gian.

Đầu thời Thiệu Trị (1841), Nguyễn Bá Nghi làm thự Giảng học sĩ, Tham biện việc Nội các, rồi thăng Thự Thị lang bộ Lại, nhưng chẳng bao lâu bị giáng xuống chức vị cũ, phải theo thuyền sang Quảng Đông (Trung Quốc) làm việc. Khi thuyền bị cháy, Nguyễn Bá Nghi phải theo đường bộ về. Dọc đường, ông bị thổ phỉ nước Thanh cướp bóc, vua nghĩ thương, cất ông làm Thị độc học sĩ tham biện việc Nội các.

Năm 1844, ông được thăng làm Thự Bố chính An Giang. Gặp lúc Chân Lạp muốn thần phục nhà Nguyễn, Đốc thần Nguyễn Tri Phương liền cử ông sang thương lượng.

Năm 1846, Nguyễn Bá Nghi về kinh, giữ chức Thị lang bộ Lễ, sung làm việc ở Nội các. Năm sau, có kỳ xét công, ông được vua khen, chuẩn cấp cho hưởng lương tòng nhị phẩm.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848), nhà vua định bổ Nguyễn Bá Nghi làm Tuần phủ Hưng Hóa, nhưng xét thấy Hà Tiên là nơi trọng yếu, mà ông thì đã từng làm quan ở An Giang, nên đổi bổ ông đến đó.

Không lâu sau ông được cử làm Hộ lý Tổng đốc Bình Phú (Phú Yên và Bình Định), rồi Tham tri bộ Lại, sung Kinh duyên nhật giảng quan (giảng sử sách hàng ngày trong cung vua) Cơ mật viện đại thần.

Năm Ất Dậu (1853), có kỳ xét công, nhà vua cho ông là người chăm siêng, cẩn thận, nhắc lên làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang). Các hạt ấy nước lụt luôn mấy năm, tình hình quẫn bách, Nguyễn Bá Nghi xin cho chẩn cấp cứu tế và xóa thuế ruộng cho dân, được nhà vua chấp thuận.

Năm Tự Đức thứ 12 (1859), nhà vua cho triệu ông về làm Thượng thư bộ Hộ, sung vào viện Cơ mật.

Năm Tân Dậu (1861), quân Pháp đánh hạ Đại đồn Chí Hòa ở Gia Định, tướng Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương, triều đình cử Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lý Gia Định, để tìm ra cách đối phó với quân Pháp.

Nhưng vì ngại vũ khí mạnh của đối phương, ông cử người đến gặp tướng Pháp là Leonard Charner để nghị hòa (thừa cơ hội này, quân Pháp đánh chiếm Định Tường ngày 14 tháng 4 năm 1961), rồi đem việc tâu lên, bị vua Tự Đức ban dụ quở trách rằng: Bá Nghi từ ngày sai ra đến nay, chỉ thấy chú ý nghị hòa...

Tháng 7, Nguyễn Bá Nghi lại gửi sớ tâu rằng: Tình hình Biên Hòa suy yếu, đánh giữ đã không được, mà hòa lại không xong, xin giảm bớt quân thứ, phái người đi cầu viện nước khác. Nhà vua lại truyền dụ quở trách

Đầu năm 1862, thành Biên Hòa thất thủ, ông bị giáng chức xuống làm Tham tri nhưng vẫn lưu lại ở quân thứ Bình Thuận để cùng với Tổng thống đại thần Nguyễn Tri Phương tiếp tục tìm kế sách chống ngoại xâm.

Trước đây, vào tháng chạp năm Quý Dậu (1861), Tạ Văn Phụng ở Bắc Kỳ tự xưng mình là Lê Duy Minh, thuộc dòng dõi nhà Lê (mạo nhận là hậu duệ vua Lê Trang Tông) làm cuộc nổi dậy lật đổ nhà Nguyễn. Thấy quân Tạ Văn Phụng ngày càng lớn mạnh, nên sau khi ký Hòa ước Nhâm Tuất với Pháp (tháng 6 năm 1862), nhà vua liền cử nhiều tướng lĩnh ra Bắc đánh dẹp, trong số đó có Nguyễn Bá Nghi. Buổi đầu, ông làm Than tán ở quân thứ, rồi làm Hộ lý Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên kiêm coi việc quân.

Mùa hạ năm 1864, Bá Nghi cáo ốm xin về hưu, bị nhà vua quở trách là trốn tránh chức việc, giáng 3 cấp, nhưng vẫn phải ở lại đánh dẹp quân người Mèo đang nổi dậy. Năm sau, ông lại dâng sớ xin chịu tội vì chưa làm tròn trách nhiệm. Nhà vua gia hạn cho 6 tháng, phải mưu tính sao cho được yên ổn. Sau, vì thu phục được thành Tuyên Quang, vỗ yên hạt Sơn Tây, ông được bổ làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên hay Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang).

Năm 1868, ông được thăng thự Hiệp biện đại học sĩ, nhưng vẫn lĩnh chức Tổng đốc như cũ. Năm Canh Ngọ (1870), tướng soái nhà Thanh là Phùng Tử Tài sang phối hợp đánh quân Ngô Côn, tàn dư của Thái Bình Thiên Quốc nhưng đã biến chất. Bá Nghi và Đào Trí vì cung ứng lương thực cho quân Thanh không kịp thời, nên bị tướng Phùng phàn nàn, đại thần Võ Trọng Bình đem việc ấy tâu lên, Bá Nghi và Đào Trí đều bị cách hết chức tước, nhưng vẫn phải ở lại quân thứ lấy công chuộc tội. Sau đó, Võ Trọng Bình lại tâu rằng Bá Nghi giải lương và thuốc đều đã khá đủ, cũng là biết cố gắng, nhà vua cho ông làm Bố chính Sơn Tây. Ông biết việc khai phục là do lời xin của Võ Trọng Bình, nên từ chối.

Tháng 4 (âm lịch) năm đó (1870), Nguyễn Bá Nghi mất tại nhiệm sở, thọ 67 tuổi. Nghe tin, vua Tự Đức thương, cho khai phục lại hàm Tổng đốc, cấp tiền tuất và cho quan quân đưa quan tài ông về quê.

Tác phẩm

Tác phẩm của ông còn để lại gồm: Sư Phần thi văn tập. Ngự chế cổ kim thư pháp.

Giải quyết việc Nam Kỳ

Sau thất bại nặng nề ở Đại đồn Chí Hòa, triều đình Huế rất bối rối. Vua Tự Đức tức tốc phái Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần, Tôn Thất Đính làm Đề đốc mang 4.000 lính vào Biên Hòa tiếp viện. Nhưng rồi, vị tướng này sau đó tâu về triều rằng: "Việc nước ta ngày nay, trừ một chước hòa không có chước nào khác. Hòa thì không ổn rồi, nhưng trông mong sự khôi phục về sau"...

Tiếp theo đó, tướng Nghi sai người đem thư nghị hòa sang đồn Pháp. Đô đốc Chaner đòi triều đình Huế phải tiếp nhận 12 khoản, trong đó có khoảng 2 (nhượng Định Tường và các vùng kế cận), khoảng 4 (nhượng Thủ Dầu Một) và khoảng 11 (bồi thường chiến tranh cho Pháp 4 triệu nguyên bạc)...là những điều tai hại nhất, khiến "triều đình thì chua xót mà dân chúng cũng nộ khí ngất trời." Bởi vậy, vua Tự Đức đã ban dụ trách: :Bá Nghi trước sau chỉ chủ hòa, vì trước đã vụng về, khinh suất trong việc hòa giải nên giờ đây thêm khó. Vậy việc Nam Kỳ, Tôn Thất Cáp lỗi lúc đầu, Nguyễn Tri Phương lầm lỡ khúc giữa, các người sau cũng không làm nên công trạng gì...

Nói đến cách Nguyễn Bá Nghi đối phó với quân Pháp, GS. Nguyễn Phan Quang viết: :Trong khi quân Pháp đang ì ạch kéo xuống Mỹ Tho, vì phải đối phó với các lực lượng dân quân trên bờ sông, kênh; thì ngót 5.000 quân của Nguyễn Bá Nghi vẫn đóng yên ở Biên Hòa!

Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 4) chép tương tự: :Từ khi nhậm chức, Nguyễn Bá Nghi chỉ đóng quân ở Biên Hòa. Công việc đầu tiên của ông là cử đại diện đi tìm gặp chỉ huy của quân Pháp là Charner để xin được "nghị hòa" trong khi đó Charner đang cử quân đi do thám ở Định Tường...

Nhận xét

Tuy cách đối phó của Nguyễn Bá Nghi đối với thực dân Pháp, có nhiều việc cần phải bàn nhưng nhân cách của ông, các tác giả đều có những nhận xét khá tốt.

Trong Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam: :...Nhiều lần Nguyễn Bá Nghi bị triều đình ghép tội vô cớ và giáng cấp vì quan điểm, lập trường của ông với thời cuộc có nhiều khác biệt với Tự Đức. Ông là người có danh vọng cao, tiết tháo, giao du thân mật với các danh sĩ đương thời như Nguyễn Văn Siêu, Phan Thanh Giản, Trương Quốc Dụng, Phạm Phú Thứ...

Trên website Quảng Ngãi: :Đường hoạn lộ của Nguyễn Bá Nghi kéo dài gần 40 năm, trải khắp ba miền Bắc, Trung, Nam; nhiều gian nan, gập ghềnh nhưng lúc nào cũng thể hiện là một người mẫn cán, kiên nghị, giàu kiến văn, chuộng thực tiễn...

Con

Nguyễn Bá Nghi, có người con trai là Nguyễn Bá Loan (? - 1908). Ông tham gia các cuộc khởi nghĩa Cần Vương vào tháng 7 năm 1885. Khi các cuộc khởi nghĩa đều đã thất bại, ông trở về gia nhập Duy Tân hội ở Quảng Ngãi. Năm 1908, phong trào "kháng thuế chống sưu" ở Quảng Nam-Quảng Ngãi bùng nổ dữ dội, Nguyễn Bá Loan được cử vào Ban lãnh đạo đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi. Ngày 07 tháng 4 năm 1908, ông bị Pháp bắt và giam ở Huế. Công sứ Pháp là Daudet và Tuần phủ Ưng Định khuyên ông qui hàng sẽ được trọng đãi, nhưng ông kiên quyết từ chối. Ông bị chém chết tại chợ Quảng Ngãi ngày 23 tháng 4 năm 1908 .

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải **Nguyễn Bá Nghi** (阮伯儀, 1807-1870), hiệu là **Sư Phần**, là một đại thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông được nhiều người biết đến từ khi được cử vào Nam thay thế
**Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng** (1868–1949) là Giám mục người Việt đầu tiên của Giáo hội Công giáo La Mã, được cử hành nghi thức tấn phong giám mục vào năm 1933. Ông đảm nhiệm
**Nguyễn Hồng Nghi** (19 tháng 12 năm 1918 – 12 tháng 2 năm 1991) là một trong những nhà nhiếp ảnh, đạo diễn điện ảnh tiên phong của điện ảnh cách mạng Việt Nam, nguyên
**Nguyễn Bá Cẩn** (9 tháng 9 năm 1930 – 20 tháng 5 năm 2009) là cựu chính khách Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức vụ Chủ tịch Hạ nghị viện và Thủ tướng
**Nguyễn Bá Thanh** (8 tháng 4 năm 1953 – 13 tháng 2 năm 2015) nguyên là Chủ tịch Ủy ban nhân dân (1997–2003), Bí thư Thành ủy Đà Nẵng (2003–2013) kiêm Chủ tịch Hội đồng
**Nguyễn Bá Loan** (1857-1908), tục gọi là _Ấm Loan_, là một chiến sĩ trong phong trào Cần vương tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Năm 1908, ông bị thực dân Pháp xử chém sau khi phong
**Nguyễn Bá Tòng** (1946 - 2019) là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam đã nghỉ hưu. Ông nguyên là Phó Tư lệnh về chính trị Binh đoàn 12 kiêm Phó Tổng giám đốc
**Nguyễn Bá Lương** (21 tháng 1 năm 1902 – 11 tháng 5 năm 1992) là kỹ sư và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng là dân biểu Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa
**Nguyễn Bá Nhiên** (sinh năm 1961) là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông nguyên là Giám đốc Công an tỉnh Bình Định . ## Tiểu sử Nguyễn Bá Nhiên sinh năm 1961,
**Nguyễn Bá Lân** (阮伯麟, 1700-1785) là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông cùng với Đoàn Trác Luân (anh trai nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), Ngô
**Nguyễn Bá Huân** (1853-1915) tự **Ôn Thanh**, hiệu **Mộ Chân sơn nhân**, sau lấy tên hiệu nữa là **Ái Cúc ẩn sĩ**; là một danh sĩ thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Nguyễn Bá Liên** (1933-1969), nguyên là một sĩ quan cao cấp thuộc Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân thời kỳ Quân đội Quốc
**Nguyễn Trường Tộ** (chữ Hán: 阮長祚, 1830? – 1871), còn được gọi là **Thầy Lân**, là một danh sĩ, kiến trúc sư, và là nhà cải cách xã hội Việt Nam ở thế kỷ 19.
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Vĩnh Nghi ** (1932 - ?) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường
**Nguyễn Đình Nghị** (阮廷誼, 1883 - 1954), thường gọi là **Trùm Nghị**, là soạn giả, nhà cách tân chèo. Ông là người khai sinh ra trào lưu chèo cải lương, một trong những người tiên
**Nguyễn Bá Phát** (2 tháng 5 năm 1921 – 1993) là một tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Chuẩn Đô đốc, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân, nguyên Thứ trưởng
**Nguyễn Văn Nghi** (1905–1942), thường gọi **Ba Nghi**, là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn. ## Cuộc đời Nguyễn Văn Nghi sinh năm 1905 trong một gia đình
**Nguyễn Đình Nghi** (12 tháng 12 năm 1928 – 9 tháng 2 năm 2001) là một trong những đạo diễn tiêu biểu của nền sân khấu hiện đại của Việt Nam nửa cuối thế kỉ
**Nguyễn Bá Quýnh** Thiếu uý, tước Nguyên quận công, là người bị Trịnh Kiểm gọi về (1569) để Nguyễn Hoàng vào thế khi ông làm Tổng Trấn Thuận Hóa Quảng Nam. ## Tiểu sử left|thumb|Bản
Combo 2 Cuốn Sách Hay Nhất Mọi Thời Đại Đàn Ông Sao Hỏa Đàn Bà Sao Kim 13 Nguyên Tắc Nghĩ Giàu Làm Giàu - Think And Grow Rich Bí Kíp Thành Công Trong Gia
**Nguyên Bá** (_chữ Hán_:元伯) là thụy hiệu của một số vị bá tước trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Tào Ngụy Quán Dương Nguyên Bá Hoa Dực (đời
**Nguyễn Văn Nghi** (1515-1584), người làng Ngọc Bôi, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, là một danh nho tiêu biểu thời Lê Trung Hưng. ## Sự nghiệp Xuất thân trong gia đình khoa
**Giuse Nguyễn Đình Nghi** còn gọi là **Giuse Kim** là một linh mục tử vì đạo, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988. Ông sinh năm 1793 tại làng
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
nhỏ|phải|Nguyễn Thị Kim Tiến (thứ 3 từ trái sang), tháng 12 năm 2020 tại Hà Nội **Nguyễn Thị Kim Tiến** (sinh năm 1959) là một nữ chính trị gia, tiến sĩ Y khoa, thầy thuốc
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Tấn Dũng** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1949 tại Cà Mau) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Thủ tướng thứ sáu của nước Cộng hòa xã hội chủ
**Nguyễn Kính** (chữ Hán: 阮敬; 1508 - 1572) tên thường gọi là Nguyễn Thanh Phúc, là một công thần khai quốc nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Nguyễn Kính, cũng còn
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
Chân dung Lưu Bá Ôn **Lưu Bá Ôn** (chữ Hán: 劉伯溫, 1310-1375), tên thật là **Lưu Cơ** (劉基), tên tự là **Bá Ôn** (伯溫), thụy hiệu **Văn Thành** (文成); là nhà văn, nhà thơ và
**Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn** (hay **Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, tiếng Anh: _Immaculate Conception Cathedral Basilica_, tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Saïgon_), thường được
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Cao Bá Quát** (; 1808–1855), biểu tự **Chu Thần** (周臣), hiệu **Mẫn Hiên** (敏軒), lại có hiệu **Cúc Đường** (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi
**Nguyễn Thị Kim Ngân** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1954) là nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và là nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nguyên là Chủ tịch Quốc hội, nguyên
**Nghi Lộc** là một huyện cũ ven biển nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Nghi Lộc nằm ở phía đông nam tỉnh Nghệ An, có vị trí
**Nguyễn Tiến Lợi** (15 tháng 10 năm 1918 – 2008) là một nhà quay phim, đạo diễn tiên phong của nhiếp ảnh và điện ảnh cách mạng Việt Nam. Vốn là một nhà nhiếp ảnh,
**Nguyễn An Ninh** (15 tháng 9 năm 1900 - 14 tháng 8 năm 1943) là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 trong
**Nguyễn Quyện** (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng
**Nguyễn Đình Đầu** (12 tháng 3 năm 1920 - 20 tháng 9 năm 2024) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam. Ông được biết nhiều với
**Nguyễn Quang A** (sinh năm 1946 tại tỉnh Bắc Ninh) là một doanh nhân, tiến sĩ khoa học, dịch giả, nhà nghiên cứu và nhà hoạt động xã hội người Việt. Từng đảm nhiệm các
**Phaolô Nguyễn Thanh Hoan** (1932–2014) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam Ông từng đảm nhận nhiệm vụ giám mục tại Giáo phận Phan Thiết trong hai giai đoạn
**Giacôbê Nguyễn Văn Mầu** (1914–2013) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa của Giáo phận Vĩnh Long trong hơn 30 năm, từ
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ