Nai sừng xám Mãn Châu (Danh pháp khoa học: Cervus canadensis xanthopygus) là một phân loài của loài nai sừng xám Cervus canadensis. Đây là một loài bản địa của vùng Đông Bắc Á, phân bố ở các quốc gia như Nga, Trung Quốc và Triều Tiên.
Mô tả
Các con hươu Mãn Châu có màu nâu đỏ trong mùa hè và màu xám nâu vào mùa đông để thích nghi với khí hậu khi tiết trời trở nên giá lạnh. Nó có lông đen trên cổ và phần dưới thì màu tối hơn, tiếp theo là mông màu sáng. Hươu Mãn Châu có kích thước nhỏ hơn so với nai sừng tấm Bắc Mỹ (Cervus canadensis canadensis) với gạc nhỏ hơn. Gạc hươu đực tương đối nhỏ. Nai cái có màu đỏ hơn hươu đực và thiếu bờm cổ. Hươu này được thích nghi với môi trường rừng rụng lá ở Mãn Châu, Yakutia, phía Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Giống như nhiều hươu đỏ, hươu trưởng thành có thể có một số điểm có thể nhìn thấy trong bộ da vào mùa hè
Phạm vi
Phân loài nai này được tìm thấy ở miền Đông Nam Siberia (phía đông của hồ Baikal), Đông Bắc Mông Cổ, Mãn Châu, Bắc Triều Tiên và đông bắc Trung Quốc. Các dạng tương tự từ Alxa, Cam Túc, Sơn Tây và phía nam Mông Cổ ban đầu được mô tả như là một phân loài riêng biệt, loài Nai Alashan (Cervus canadensis alashanicus). Tuy nhiên nghiên cứu di truyền gần đây chỉ ra rằng con nai này thuộc phân loài Mãn Châu.
Sừng hươu
Chúng là một trong ba loài thường được nuôi để lấy nhung. Gạc giống hươu trắng là sản phẩm được lấy từ loài hươu tuyết toàn thân hươu có màu trắng được cho là loại đặc biệt quý hiếm. Được coi là vị thuốc bổ dùng trong các trường hợp cơ thể suy nhược, thần kinh suy nhược, lao động chân tay và trí não quá tải... Những con nai trắng được sinh ra một màu nâu hoặc nâu với một mẫu trắng đốm. Đôi khi những nai tơ có thể được sinh ra với một màu xám khi xuất hiện điều này làm cho chúng trông có vẻ bẩn thỉu. Bộ lông của chúng sau đó trở thành màu trắng tinh khôi ở vào giữa năm thứ hai và đôi khi bị nhầm lẫn với hươu bị bạch tạng.
Gạc hươu trắng là loại đặc biệt khác gạc hươu đỏ ở chỗ nhẵn hơn, ít nhánh hơn và có màu trắng ngà toàn thân, dài 70–120 cm và đường kính khoảng 3–5 cm, gạc hươu trắng được cho là có tác dụng tốt hơn hươu thường, có thể do cấu trúc thành phần vi chất, khoáng chất trong gạc hươu tuyết khác gạc hươu thường. Chính vì vậy mà gạc hươu trắng có giá trị cũng như bổ dưỡng hơn được nhiều người lựa chọn dùng hơn. Trong gạc hươu tuyết có chứa khoảng 25% chất keo (keratin) 50-60% calci photphát, calci cacbonat, một ít chật đạm và ít nước.
Gạc hươu tuyết có tác dụng tốt hơn hươu thường gấp nhiều lần về giá trị dinh dưỡng cũng như công dụng với sức khoẻ con người. Theo y học cổ truyền Việt Nam, gạc hươu nai có tác dụng sinh tinh, bổ tủy, ích huyết; chữa các chứng hư tổn cơ thể, di tinh, liệt dương, vô sinh, bệnh lậu, giúp khỏe gân xương, kéo dài tuổi thọ. gạc hươu giúp tăng sức mạnh cơ bắp, sảng khoái tinh thần, vết thương mau lành, ăn ngủ tốt, lợi niệu và tăng nhu động dạ dày – ruột, chuyển hóa tốt protid và glucid... Liều mạnh gây hạ huyết áp, làm tim co bóp mạnh, đập nhanh, giật cơ, co giật hay đông huyết.
Trong ẩm thực
Loài nai Mãn Châu này có những ý nghĩa trong ẩm thực Trung Quốc. Gân nai lấy từ Giống nai đực có sừng (gạc). Vào mùa hạ nai đực rụng sừng. Sừng non của nai gọi là lộc nhung, là một vị thuốc tráng dương, bổ thận, tăng sinh lực. Gân nai được dùng để chế biến món ăn. Khi làm thịt, dùng lửa thui đùi nai, cạo sạch lông. Cho vào nước luộc mềm. Dùng dao nhọn xẻ tách gân ra khỏi phần bắp thịt. Cho gân nai ngâm trong nước có pha muối và giấm cho mềm. Khi gân đã mềm, cắt khúc, hầm chung gân nai trong nước luộc gà (chicken broth) với tôm khô, măng, củ đậu, chả lụa.
Ngoài ra còn sừng non trên đầu hươu ngựa đực hoặc hươu hoa mai thuộc họ Hươu chưa xương hóa và mọc lông nhung dày đặc. Nhung hươu hoa mai thường gọi là nhung hươu hoa còn nhung hươu ngựa đực gọi là nhung hươu ngựa. Các loài hươu này thường sinh trưởng ở vùng Cát Lâm, Liêu Ninh, Hắc Long Giang, Tân Cương, Thanh Hải thuộc Trung Quốc. Cưa nhung hươu vào mùa hạ và thu, sau khi gia công thì phơi khô hoặc sấy khô. Khi dùng đốt bỏ lông, cạo sạch, thái lát mỏng ngang hoặc bổ thành miếng vụn, nghiền thành bột để dùng. Theo Đông Y, nhung hươu có tính ấm, vị ngọt mặn, tốt cho thận, gan, có tác dụng bổ thận tráng dương, ích tinh huyết, cường gân cốt, điều xung nhiệm, trị độc ở vết thương.
Trong Tám món ăn hay mười món ăn quý nhất Trung Hoa (Bát trân), có món gân hươu Liêu Ninh. Gân hươu Liêu Ninh là gân con hươu ở Liêu Ninh làm món ăn. Hươi ở miền núi Liêu Ninh có tiếng là quý. Vì hươu ở đây được ăn ngon một giống nhân sâm mọc trong rừng. Gân hươu có thể làm ra nhiều món ăn. Gân hươu khô đem ngâm với nước tro bếp một đêm. Hôm sau cho vào nồi nước, đun sôi trong hai giờ. Khi nào gân mềm sẽ đem ra, rửa sạch rồi cắt thành từng khúc nhỏ, lại chẻ hai đầu ra làm bốn năm miếng. Lấy thịt gà nạc, thịt bắp đùi heo, hành, nấm hương, của mã thày, đậu xanh, mướp hương, sáng sấu (chanh hay muốn tiêu), mì chính, muối rang và bốn vị thuốc bắc là khởi tử, hoài sơn, đại táo, hùng kỳ, cho gân hươu vào nấu chín mềm là thành món ăn ngon và bổ.
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nai sừng xám Mãn Châu** (Danh pháp khoa học: **_Cervus canadensis xanthopygus_**) là một phân loài của loài nai sừng xám Cervus canadensis. Đây là một loài bản địa của vùng Đông Bắc Á, phân
**Hươu sao Mãn Châu** hay còn gọi là **hươu sao Dybowski** (Danh pháp khoa học: _Cervus nippon mantchuricus_ hay là _Cervus nippon dybowskii_) là một phân loài của loài hươu sao, chúng là phân loài
**Đồng Nai** là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, miền Nam Việt Nam. ## Thời Chúa Nguyễn và Nhà Tây Sơn Năm Mậu Dần **1698**, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành
**Nai sừng xám Alashan** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis alashanicus_) là một phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy ở Bắc Trung Quốc và Mông Cổ. Nó là phân loài nhỏ
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
phải|Hai con lợn rừng **Lợn rừng** hay **heo rừng** (_Sus scrofa_) còn được gọi là **lợn lòi** là một loài lợn sinh sống ở lục địa Á-Âu, Bắc Phi, và quần đảo Sunda Lớn. Con
**Nai sừng tấm Á-Âu** (Danh pháp khoa học: _Alces alces_) là một loài thú trong phân họ Capreolinae thuộc họ hươu nai (Cervidae). Đây là loài thú to lớn nhất và nặng nhất còn tồn
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
**Dận Nhưng** (, chữ Hán: 胤礽, bính âm: Yìn Réng; 6 tháng 6 năm 1674 - 27 tháng 1 năm 1725), là Hoàng tử thứ 2 tính trong số những người con sống tới tuổi
Hợp lưu của sông Lò Rèn và sông Vàm Sát trong rừng Cần Giờ, nhìn phía xa hướng Đông có thể thấy Núi Lớn của thành phố [[Thành phố Hồ Chí Minh|Hồ Chí Minh]] Rừng
**Nai vàng Đông Dương** (Danh pháp khoa học: **_Hyelaphus annamiticus_**) là một loài thuộc chi Hyelaphus và cũng được coi là phân loại của hươu vàng là động vật bản địa của Campuchia, Lào, Trung
**Bố Chiếm Thái**(; , 1575 – 1618) Na Lạp thị, là Ô Lạp Bối lặc cuối cùng. ## Thân thế Bố Chiếm Thái là hậu duệ của Nạp Kỳ Bố Lộc (納奇卜祿, Nacibulu), tổ tiên
**Đại Thiện** (; ; 19 tháng 8 năm 1583 – 25 tháng 11 năm 1648) là một hoàng thân Mãn Châu và chính trị gia có ảnh hưởng của nhà Thanh trong thời gian khai
**Cao Câu Ly** (; tiếng Hàn trung đại: 고ᇢ롕〮 Gowoyeliᴇ), (năm thành lập theo truyền thống là năm 37 trước Công nguyên, có lẽ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên – 668) là một
**Vĩnh Kỳ** (chữ Hán: 永琪; ; 23 tháng 3, 1741 – 16 tháng 4, 1766), Ái Tân Giác La, biểu tự **Quân Đình** (筠亭), hiệu **Đằng Cầm Cư Sĩ** (藤琴居士), là Hoàng tử thứ năm
**Sách Ni** (chữ Hán: 索尼; ; 1601 – 12 tháng 8 năm 1667) còn gọi là **Tỏa Ni** (鎖尼), **Sách Nê** (索泥), họ Hách Xá Lý thị, là công thần khai quốc của nhà Thanh,
**Người Nanai** (tên tự gọi нани/Nani nghĩa là người bản địa; tên tự gọi **Hách Triết** nghĩa là người phương Đông; tiếng Nga: нанайцы, "nanaitsy"; tiếng Trung: 赫哲族, "Hèzhézú"; Hán-Việt: Hách Triết tộc, trước đây
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Tái Đào** (chữ Hán: 載濤; 23 tháng 6 năm 1887 – 2 tháng 9 năm 1970), tự **Thúc Nguyên** (叔源), hiệu **Dã Vân** (野云), Ái Tân Giác La, người Mãn Châu Chính Hồng kỳ, là
**Cá rồng châu Á** hay **cá mơn** (_Scleropages formosus_) là một loài cá nước ngọt, ở Việt Nam người ta thường biết chúng qua tên gọi là cá rồng. Trong thế giới cá cảnh, cá
**Primorsky Krai** (tiếng Nga:Примо́рский край), không chính thức được gọi là **Primorye** (Приморье), hay **Tân Hải** (濱海), là một chủ thể liên bang của Nga (một vùng, _krai_). Trung tâm hành chính là thành phố
**Đại bàng vàng châu Á** hay còn gọi là **Berkut** (Danh pháp khoa học: _Aquila chrysaetos daphanea_) là một phân loài của loài đại bàng vàng (A. chrysaetos) phân bố ở các vùng thuộc châu
**Hổ Siberia**, **hổ Amur**, **hổ Triều Tiên**, **hổ Ussuri** hay **hổ Mãn Châu** hoang dã; biệt danh: "Chúa tể rừng Taiga", là một phân loài hổ sinh sống chủ yếu ở vùng núi Sikhote-Alin ở
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
**Người Hoa** () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là **người Minh**,
Bản đồ châu Á và châu Âu khoảng năm 1200 **Khuất Xuất Luật** () hay **Kuchlug** (cũng viết là _Küchlüg_, _Küçlüg_, _Güčülüg_) là một vương tử của bộ lạc Nãi Man ở miền tây Mông
là một nam ca sĩ người Trung Quốc nổi tiếng với chất giọng phản nam cao (countertenor). Anh được biết đến nhiều nhất qua ca khúc《Đại ngư》(大鱼) và《Hoa hồng và nai nhỏ》(玫瑰与小鹿). Cả hai bài
**Tây Liêu** () (1124 hoặc 1125-1218), hay còn gọi là **Hãn quốc Kara-Kitai** () hay **Tây Khiết Đan** quốc hiệu chính thức là **Đại Liêu** (), là một nhà nước của người Khiết Đan ở
**Hươu sao** (_Cervus nippon_) là một loài hươu có nguồn gốc ở phần lớn Đông Á và được du nhập đến nhiều nơi khác trên thế giới. Trước đây được tìm thấy từ miền bắc
**Hòa Thạc An Thân vương** (chữ Hán: 和碩安親王) là một tước vị thế tập của triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của An vương phủ là A
**Đội Chiến dịch Đặc biệt số 13 (**tiếng Anh: **Special Operation Team No. 13)**, mật danh **Con Nai** (tiếng Anh: **Deer**), hay **Đội Con Nai** (tiếng Anh: **Deer Team**), là một nhóm đặc nhiệm tình
**Hươu Đại Hạ** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus bactrianus_) hay còn gọi là **Hươu Bactria**, **Hươu Bukhara**, **Hươu Bokhara** là một phân loài của loài hươu đỏ bản địa của vùng Trung Á, chúng
**Mẫn Ai Vương** (mất 839, trị vì 838–839) là quốc vương thứ 44 của Tân La. Ông là chắt của Nguyên Thánh Vương, và là con trai của _đại a xan_ Kim Trung Công (_Kim
**Cá sấu nước mặn** (danh pháp hai phần: _Crocodylus porosus_), còn gọi là **cá sấu cửa sông** hay ở Việt Nam còn được gọi là **cá sấu hoa cà**; là loài cá sấu lớn nhất
**Báo hoa mai** (_Panthera pardus_), thường gọi tắt là **báo hoa**, (tiếng Anh: **Leopard**) là một trong năm loài mèo lớn thuộc chi _Panthera_ sinh sống ở châu Phi và châu Á. Chúng dài từ
**Siberia** (, ) là vùng đất rộng lớn gần như nằm trọn trong nước Nga, chiếm gần toàn bộ phần Bắc Á và bao gồm phần lớn thảo nguyên Á-Âu. Siberia trong lịch sử là
thumb|right|upright=1.4|Thiết Mộc Chân (Thành Cát Tư Hãn) tuổi xế chiều, chân dung bán thân thời [[nhà Nguyên thế kỷ thứ 14]] **Hội thề Ban Chu Ni** hay **Baljuna** (chữ Hán: ; bính âm: ) là
**Núi Trường Bạch**, còn gọi là **núi Bạch Đầu**, **núi Paektu**, là một ngọn núi dạng núi lửa nằm trên biên giới giữa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Trung Quốc. Với
**Ô Châu cận lục** (chữ Hán: 烏州近錄, có nghĩa "ghi chép thiết yếu về châu Ô”) do Dương Văn An (楊文安) (1514 – 1591) làm từ năm 1553, sửa chữa và ấn hành vào năm
**Thạc Thác** (, chữ Hán: 碩託, 1600 - 1643), Ái Tân Giác La, con trai thứ hai của Lễ Liệt Thân vương Đại Thiện. Ông là một trong những nhà quân sự, lập nhiều chiến
**Châu Bách Hào** (tên tiếng Hoa: **周柏豪**, tên tiếng Anh: **Pakho Chau**, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1984), quê quán Khai Bình, Quảng Đông, là nam ca sĩ, nhạc sĩ, người viết lời, chủ
Đền thờ Huỳnh Mẫn Đạt tại thành phố [[Rạch Giá]] **Huỳnh Mẫn Đạt** (黃敏達, 1807–1882), còn gọi là **Tuần Phủ Đạt**, là quan nhà Nguyễn và là nhà thơ ở thế kỷ 19 tại Nam
**Lợn rừng châu Âu** hay **lợn rừng Trung Âu** (Danh pháp khoa học: _Sus scrofa scrofa_) là một phân loài chỉ định của loài lợn rừng có nguồn gốc hoang dã và phân bố trên
**Vương Lệ Khôn** (, sinh ngày 22 tháng 3 năm 1985) tại Ông Ngưu Đặc **Ongniud** (giản thể: 翁牛特旗, bính âm: Wēngniútè Qí), Thành phố Xích Phong, Khu tự trị Nội Mông. Cô là nữ
Vật liệu: Vải bông + vải nhung lông Kích thước: 13*7cm(5.11 ''* 2.75'') Bộ đồ cho bé 2-8 tuổi Lưu ý: 1. Kích thước của Trung Quốc châu Á nhỏ hơn kích thước của Mỹ
Vật liệu: Vải bông + vải nhung lông Kích thước: 13*7cm(5.11 ''* 2.75'') Bộ đồ cho bé 2-8 tuổi Lưu ý: 1. Kích thước của Trung Quốc châu Á nhỏ hơn kích thước của Mỹ