✨Lợn rừng châu Âu

Lợn rừng châu Âu

Lợn rừng châu Âu hay lợn rừng Trung Âu (Danh pháp khoa học: Sus scrofa scrofa) là một phân loài chỉ định của loài lợn rừng có nguồn gốc hoang dã và phân bố trên khắp châu Âu gồm miền bắc Tây Ban Nha, miền bắc nước Ý, Pháp, Đức, Benelux, Đan Mạch, Ba Lan, Cộng hòa Séc, Slovakia và có thể Albania. Cũng từng phân bố ở Anh và đã tuyệt chủng ở quần đảo Anh.

Đặc điểm

Với tư cách là một phân loài chỉ định (Nominate subspecies) lợn rừng châu Âu đại diện cho những mô tả chung nhất về loài lợn rừng. Đây là một phân loài có kích thước cỡ vừa đến lớn, có bộ lông màu tối là chủ đạo pha lẫn với những bộ lông màu nâu đen, chúng có xương lệ đạo dài và tương đối hẹp. Ở miền Bắc Italy, một phân loài ảo du nhập S. s. scrofa đã phổ biến rộng rãi lai giống với các cá thể có kích thước nhỏ hơn bản địa S. s. majori kể từ những năm 1950.

Có những con lợn rừng có trọng lượng lớn, có thể đến 300 kg, chạy nhanh, bơi lội giỏi, dễ nuôi, ít bị bệnh. Chúng là giống vật du cư sống theo bầy đàn cùng bộ lông sọc vằn màu xám nâu đặc trưng. Lợn rừng ở Tây Ban Nha và Pháp có 36 cặp nhiễm sắc thể ngược lại với các loại lợn rừng của châu Âu có 38 cặp giống như lợn nhà. Hai loại lợn rừng có 36 và 38 cặp nhiễm sắc thể đó được giao phối tạo nên thế hệ con lai có nhiễm sắc thể là 37 và cũng có khả năng sinh sản.

Kích thước

Nhìn chung, lợn rừng châu Âu có tầm vóc khá hơn lợn rừng châu Á, có con nặng tới 200 – 300 kg, cao tới 90 – 100 cm, thân dài 150 – 160 cm. Có những con với tầm vóc dài đến 1,5m và nặng 300 kg, và cũng có hệ răng nanh rất phát triển giúp chúng kiếm ăn và phòng vệ. Lợn rừng châu Âu thường có tầm vóc to lớn hơn nhiều so với lợn rừng châu Á. Trong khi lợn rừng châu Á chỉ có thể cao 65–70 cm, dài 120–140 cm. nặng 70–150 kg, thì lợn rừng châu Âu có thể cao tới 90–100 cm, dài từ 150–160 cm, nặng tới 200–350 kg. Con đực thường to lớn hơn con cái khoảng từ 20–30 kg. Thậm chí giống lợn rừng đại hay lợn rừng thần thoại hay lợn rừng rậm lông xuất hiện ở các rừng thưa châu Âu có con những người thợ săn bắt được có trọng lượng khổng lồ 400–600 kg. Tuy nhiên, giống lợn khổng lồ này chưa thể thuần dưỡng được. Về tổng thể, chúng có vóc dáng cân đối, nhanh nhẹn, di chuyển linh hoạt, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ, cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, răng nanh phát triển mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn. Chúng nhảy cao tới hơn 1,8m, di chuyển với khoảng cách dài và chạy với vận tốc 30 km/h nhỏ|giữa|Hình chụp tổng thể về một con lợn rừng châu Âu

Sinh trưởng

Vào mùa xuân, lợn rừng nái thường đẻ từ 10 đến 12 con. Lợn rừng thường có từ 8 – 10 vú, hiếm thấy có lợn trên 12 vú. Lợn rừng cái 6 – 7 tháng tuổi, quãng 20 –27 kg đã bắt đầ động dục. Động dục của lợn rừng cái thầm nặng hơn động dục của lợn nhà nên khó phát hiện. Chúng thường ít kêu rống, thích nằm một chỗ. Âm hộ sưng tấy màu đỏ trong 2 ngày đầu, rồi chuyển sang tím tái từ ngày thứ 3 và thứ 4. Quá trình động dục diễn ra 3 đến 4 ngày và nếu không được phối giống thì 20 – 22 ngày sau lại xuất hiện lần động dục mới. Hoạt động tình dục và sản xuất hormone testosterone ở lợn đực được kích thích (triggered) bởi độ dài của ngày (day length) và đạt mức cao nhất vào giữa mùa thu. Mùa giao phối các con đực sống độc thân sẽ gia nhập đàn lợn cái. Chúng sẽ đánh nhau để tranh giành quyền giao phối và con thắng sẽ chiếm hết các lần giao phối.

Gần tới ngày đẻ, lợn mang thai sẽ tự tìm hoặc tự tạo ra hang hốc và kiếm lá cây khô, cỏ khô để làm ổ đẻ. Các hang đất hoặc hố đất làm ổ đẻ thường là nơi kín đáo, tĩnh mịch, ấm áp và khô ráo. Đây là chỗ để chúng bảo vệ đàn con. Đất pha cát là thích hợp nhất để lợn mang thai đào dũi làm ổ đẻ. Chúng rất hung dữ khi nuôi con. Lợn mẹ không muốn con người và các động vật khác biết ổ đẻ của nó. Do sống hoang dã, mà lợn rừng có tốc độ lớn chậm, có khi 1 năm tuổi chúng mới chỉ nặng được 30 – 40 kg. Khi lợn đạt từ 30 kg/con trở lên, tốc độ lớn của lợn rừng càng chậm lại. Nhiều con lợn cái động dục và phối giống lần đầu lúc 7 – 8 tháng tuổi. Và chỉ nặng trên dưới 20 kg.

Lợn rừng thường có số con đẻ ra mỗi lứa thấp, từ 5 – tám con. Lợn con sơ sinh nhỏ, chỉ vài ba lạng một con. Lợn con thường được lợn mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc tới khi lợn mẹ mang thai lần kế thiếp. Thời gian này khéo khi kéo dài tới 3 – 4 tháng. Lợn rừng thường đẻ 1,2 – 1,3 lứa/năm. Nhưng nếu được thuần dưỡng và sớm tách đàn khi nuôi con, lợn rừng lại sinh sản rất mắn, khoảng 2 – 2,3 lứa/năm. Lợn rừng lúc động đực và phối giống xong, lúc mang thai có thể sống chung với bầy đàn cho đến lúc đẻ con, lúc gần đẻ sẽ tách bầy, làm tổ đẻ.

Phần lớn lợn làm tổ bằng cỏ và nhánh cây, tùy khả năng của nó kiếm được về đánh đống cao khoảng 1m, nó kiếm chỗ cao làm tổ. Lợn mẹ sẽ bò vào và bới khoanh rỗng giữa đống cỏ rồi đẻ con và nuôi con ở đây 4 tháng, cho đến lúc con lớn khỏe mạnh rồi mới đưa con vào nhập đàn cùng sinh sống bình thường như cũ. Lợn mẹ và con ở với nhau trong ổ hoặc gần ổ trong 4-6 ngày. Sau đó lợn mẹ và con sẽ quay lại đàn. Lợn con thường bú lẫn mẹ của chúng.

Tập tính

nhỏ|trái|Lợn rừng châu Âu là loài ăn tạp, chúng ăn rất nhiều thứ bắt gặp trên đường đi Lợn rừng là loài ăn tạp. Chúng ăn cỏ, rễ cây, hoa quả, sâu bọ và những động vật thân mềm khác. Vốn là giống vật du cư, chúng đi lại dọc ngang khắp châu Âu đại lục. Chỉ sau một đêm có thể di chuyển tới 30 cây số đường rừng. Tại miền Nam nước Pháp, lợn rừng di chuyển 2–15 km/đêm, mặc dù khu vực đó chỉ rộng từ 20 – 150 ha. Trong vòng 2-3 tháng lợn trưởng thành đi hết một diện tích 500-1.000; 1.000-2.000 ha; 500-5.000 ha theo thứ tự đối với lợn đực trưởng thành, cái trưởng thành và lợn hậu bị. Trong vòng 6 đến 12 tháng diện tích chúng đi có thể đến 10.000 ha. Nếu như có chỗ nào đó ưa thích trên đường đi, chúng có thể định cư lại đấy một tháng, một năm hay nhiều năm rồi thay đổi chỗ ở so với tất cả các giống vật vốn gắn bó với lối sống hoang dã.

Lợn rừng thường linh hoạt lúc sáng sớm và chiều muộn, và trở thành kẻ ăn đêm ở những vùng không yên tĩnh. Một ngày chúng dùng 4-8 tiếng để gặm cỏ và di chuyển đến vùng có thức ăn. Lúc ăn chúng thường ăn cả đàn. Lợn đực độc thân đôi lúc cũng tham gia sinh hoạt cùng với đàn, tại đây chúng phô trương sức mạnh của mình. Lợn đực thường là những con vật hoạt động lúc hoàng hôn, gặm cỏ từ chạng vạng tối tới rạng đông, có quảng nghỉ ngơi ban ngày và ban đêm. Cúng là những động vật ăn tạp, ăn tất cả những gì nơi chúng đi qua như cỏ, quả hạnh, quả mọng, xác chết, rể cây, củ quả, đồ thừa, sâu bọ giun dế và các loại bò sát nhỏ.

Phạm vi hoạt động có thể còn lớn hơn nếu con vật đó bị trục xuất khỏi đàn khiến nó phải bỏ đi lang thang. Một nghiên cứu tại châu Âu cho thấy chúng có thể đi xa tới 50–250 km. Ở lợn con, thói quen đào ủi bắt đầu có ngay sau một vài ngày đầu sau sinh. Cai sữa sau 3-4 tháng. Khoảng 2 tuần tuổi chúng bắt đầu ăn thức ăn cứng như giun dế và ấu trùng. Lúc đẻ lợn thường đi kiếm vạt đất nào đó kín khuất. Lợn bươi một hố sâu 5–10 cm. Sau đó chúng vơ rơm rác và cành cây chất xung quanh cao khoảng 1m. Hàng ngày chúng chỉ đi khỏi ổ để kiếm ăn. Chúng có khả năng cắp con về một chỗ khi con cái tản mạn.

Heo rừng thường không lùi bước trước bất kỳ vật cản nào trên đường đi, nó có thể chạy xuyên qua những nơi hiểm trở nhất khi bị săn đuổi, hoặc sẵn sàng nghênh chiến với chó săn trong tư thế lỳ lợm. Nếu bất chợt gặp một chú lợn giữa rừng sâu, đầu tiên nó sẽ đứng bất động ngước nhìn với ánh mắt thân thiện để tỏ tình bằng hữu, sau mới nhẹ nhàng tháo lui bằng những bước chạy ngắn cùng cái đuôi ngoe nguẩy. Nếu bị làm giật mình hay dồn vào góc, đặc biệt lợn cái đang cùng với con có thể bảo vệ nó và con của chúng với sức mạnh đáng kể. Lúc chuẩn bị đánh trả, lợn đực sẽ cúi đầu xuống và nhe răng nanh lên. Lợn cái thường tấn công bằng cách ngoạm, cắn. Những cú đánh của lợn thường không gây chết cho người, nhưng gây trọng thương khiến đối thủ tàn tật và mất máu.

Ở châu Âu chúng không quá hung hăng, Luật ở Đức chỉ cho phép loại bỏ lợn rừng khi nó gây hại. Lợn rừng châu Âu đôi khi cũng có vụ việc lợn rừng tấn công và làm bị thương 4 người ở Berlin, Đức. một con lợn rừng đã tấn công 4 người. Cả bốn nạn nhân đều bị thương. Nếu gặp một con lợn đơn độc vừa bị thương bởi đạn súng săn chẳng hạn, nó sẽ không ngần ngại lao vào tấn công với mục đích trả thù đồng loại của kẻ đã sát thương nó. Một khi đám heo con đang đứng trước nguy cơ gặp nạn thực sự, heo mẹ sẽ lao thẳng tới, sẵn sàng liều chết để cứu đàn con Số lượng của chúng đang tăng nhanh chóng ở nhiều khu vực, Khả năng sinh sản cao là yếu tố chính giúp lợn hoang sinh sôi mạnh mẽ. Những con lợn rừng được nhập khẩu vào bang Texas từ châu Âu. Trước kia người dân Mỹ nuôi chúng trong nhà, nhưng sau đó nhiều con thoát ra ngoài và sinh sản trong môi trường hoang dã. Hệ thực vật của nhiều vùng trong bang Texas bị tàn phá nghiêm trọng bởi sự hiện diện của chúng.

Sau khi chào đời 6 tháng, lợn cái đã có thể mang thai. Chúng sinh ra trung bình sáu con mỗi lứa và mỗi năm chúng đẻ trung bình 1,5 lứa. Chúng gây nên thiệt hại kinh tế 1,5 tỷ USD mỗi năm. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ, hơn 5 triệu con lợn rừng đang sống tại các bang. khá hung dữ đối với người và thú nuôi. Chúng có thể gây nên nhiều mối họa đối với thiên nhiên, ví dụ như ăn những động vật nguy cấp hay phát tán những loài cỏ xâm lấn. Ngoài ra, lợn rừng có thể truyền hơn 30 loại bệnh cho con người, gia súc và các động vật hoang dã khác. Thói quen đào đất và ăn rễ cây của chúng làm giảm năng suất cây trồng trong nông trại. Những chiếc hố mà lợn rừng tạo ra trên đường có thể gây nên tai nạn giao thông bất ngờ.

Trong văn hóa

Châu Âu

Lợn rừng châu Âu có ảnh hưởng nổi bật trong văn hóa về heo ở Scandinavia, Đức và Anglo-Saxon, với hình ảnh của mình khi thường xuyên được khắc trên mũ trụ, khiên và kiếm. Theo Tacitus, Bộ tộc Baltic Aesti đặc trưng với hình tượng con lợn trên mũ trụ của họ, và có thể có mặt nạ heo rừng. Lợn rừng châu Âu đã được đặt ở vị trị đặc biệt trang trọng cao bởi người Celt, người coi chúng là con vật linh thiêng quan trọng nhất của họ. Một số vị thần Celtic liên quan đến lợn bao gồm Moccus và Veteris.

Hình tượng con lợn rừng châu Âu trên các huy hiệu ở châu Âu

File:Blason Es famille Atxega (Guipuscoa).svg|
File:Blason Es famille Bagalde (Irun).svg|
File:Blason ville fr Blies-Ebersing 57.svg|
File:DEU Eberbach COA.svg|
File:Blason de la ville de Curgies (59) Nord-France.svg|
File:Blason Fr famille Ibarrola (Sare).svg|
File:Blason commune de Habay (Belgique).svg|
File:Blason Fr famille Garris (Basse-Navarre).svg|
File:Blason Es famille Garmendia (Guipuscoa).svg|
File:Blason Fr famille Etchezahar (Mixe).svg|
File:DE Everswinkel COA.svg|
File:DEU Eberfing COA.svg|
Nó đã được gợi ý rằng một số huyền thoại đầu xung quanh người anh hùng Welsh Culhwch liên quan đến các nhân vật chính là con trai của một vị thần heo rừng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của lợn đực như là một mục ẩm thực giữa các bộ lạc Celtic có thể đã được phóng đại trong văn hóa phổ biến của những câu chuyện về Asterix, như xương heo rừng là hiếm trong số các địa điểm khảo cổ Celtic, và số ít đó xảy ra cho thấy không có dấu hiệu của sự tàn sát, có thể được sử dụng trong các nghi lễ hiến tế.

Hy Lạp

Trong văn hóa Hy Lạp cổ đại, heo rừng đại diện cái chết, do mùa săn bắn của nó bắt đầu vào ngày 23 tháng 9, kết thúc gần cuối năm. Heo rừng cũng được coi là một đại diện của bóng tối chiến đấu chống lại ánh sáng do màu sắc bộ lông tối tăm của nó và thói quen ăn đêm. Săn heo rừng xuất hiện thường xuyên trong thần thoại Hy Lạp cổ đại và văn học. Việc đề cập đến ghi nhận đầu tiên của một cuộc săn lợn rừng ở châu Âu xảy ra ở 700 trước Công nguyên trong màn biểu diễn của người đi săn heo rừng Calydonian của Homer. Trong tác phẩm Odyssey của Homer, Odysseus đã bị thương ở chân trong cuộc săn heo rừng khi còn là một cậu bé. Vết sẹo trên chân của mình là những gì dẫn Eurycleia để nhận ra anh trên trở về từ Ithaca. Trong truyền thuyết của Hoàng tử Adonis, nhân vật đi săn heo rừng và bị giết chết bởi nó. Kỳ công thứ ba của Heracles tham gia chụp con lợn Erymanthian. Theo truyền thuyết của việc thành lập Êphêsô, thành phố được xây dựng trên mặt đất, nơi một con lợn đã bị giết bởi Hoàng tử Androclos.

Trong thần thoại Hy Lạp về 12 kỳ công của Héc-Quyn, có nhiệm vụ Con heo rừng ở núi Erymanthus, Nhiệm vụ thứ tư này đưa Heracles về lại Arcadia trong cuộc truy lùng con heo rừng khổng lồ và tàn ác, mà chàng được yêu cầu phải bắt sống nó. Trong khi đang theo dấu con vật, chàng dừng chân ghé thăm nhân mã Pholus. Con nhân mã trong khi đang xem một trong những mũi tên của Heracles thì tình cờ làm rơi trúng chân mình. Do mũi tên đã được tẩm nọc độc của con rắn Hydra nên làm cho Pholus chết ngay lập tức. Heracles cuối cùng cũng xác định được vị trí con heo rừng trên đỉnh Erymanthus và tìm được cách lùa nó vào trong một bãi tuyết, tóm chặt nó. Vác con heo rừng lên vai, Heracles mang nó về cho Eurysheus, làm hắn sợ hãi nép mình sau cánh cửa kho hé mở như thường lệ. Và chiến lợi phẩm của chàng là 1 cây chùy được làm bằng sấm chớp.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lợn rừng châu Âu** hay **lợn rừng Trung Âu** (Danh pháp khoa học: _Sus scrofa scrofa_) là một phân loài chỉ định của loài lợn rừng có nguồn gốc hoang dã và phân bố trên
**Mèo rừng châu Âu** (**_Felis silvestris_**) là một loài mèo rừng sinh sống ở những khu rừng mưa của Tây Âu, Trung Âu, Đông Âu và Nam Âu cũng như ở Scotland, Thổ Nhĩ Kỳ
phải|Hai con lợn rừng **Lợn rừng** hay **heo rừng** (_Sus scrofa_) còn được gọi là **lợn lòi** là một loài lợn sinh sống ở lục địa Á-Âu, Bắc Phi, và quần đảo Sunda Lớn. Con
**Hệ động vật của Châu Âu** là tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Âu và các vùng biển và hải đảo xung quanh. Vì không có ranh giới địa lý sinh
**Lợn rừng lai** hay **Heo rừng lai** (_Sus scrofa_ x _Sus scrofa domesticus_) là một giống lai giữa một con lợn rừng và lợn nhà. Thông thường, lợn rừng lai là con lai giữa lợn
**Lợn rừng Ấn Độ** (Danh pháp khoa học: _Sus scrofa cristatus_), còn được gọi là **lợn Andaman** hoặc **Lợn Moupin** là một phân loài của loài lợn rừng bản địa hoang dã đến từ Ấn
thumb|300x300px|Các tiểu vùng của Châu Âu - CIA World Factbook **Châu Âu** hay **Âu Châu** (, ) về mặt địa chất và địa lý là một bán đảo hay tiểu lục địa, hình thành nên
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Âu. ## Albania (4) trái|nhỏ|Trung tâm lịch sử của [[Berat]] * Butrint (1992) * Trung tâm lịch sử của
**Lịch sử châu Âu** mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài,
nhỏ|phải|Một con lợn rừng bị bắn hạ **Săn lợn rừng** hay **săn heo rừng** hay **thú săn lợn rừng**, **thú săn heo rừng** nói chung là việc thực hành săn bắn các loại lợn rừng
thumb|Một con lợn rừng trên huy hiệu của [[Eberbach (Baden)|Eberbach, Đức (thiết kế năm 1976)]] **Hình tượng con lợn rừng** được thể hiện rõ nét trong nghệ thuật từ thời cổ đại cho đến thời
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
thumb|_Cuculus canorus_ + _Erithacus rubecula_ **Oanh châu Âu** (danh pháp hai phần: **_Erithacus rubecula_**) là một loài chim thuộc Họ Đớp ruồi. Loài chim này dài 12,5–14 cm, con trống và con mái có màu sắc
**Mèo rừng châu Phi** (**_Felis lybica_**) là một loài mèo rừng. Chúng hình thành và tách biệt khỏi các nòi mèo khác vào khoảng 131.000 năm về trước. Một số cá thể mèo rừng châu
**Các lãnh thổ đặc biệt của các thành viên Khu vực Kinh tế châu Âu** (tiếng Anh: _Special territories of members of the European Economic Area_), viết tắt là **EEA**, bao gồm 32 lãnh thổ
**Lửng châu Âu** (_Meles meles_) là loài lửng bản địa thuộc chi _Meles_ ở châu Âu. Đây là loài bản địa hầu như khắp châu Âu. Nó sống trong hang và sống theo bầy đàn.
**Cú mèo châu Âu** (danh pháp khoa học: **_Otus scops_**) là một loài cú mèo nhỏ thuộc họ Cú mèo. Loài này là một phần của nhóm lớn hơn các loài cú gọi là cú
**Chi Dừa cạn châu Âu** (danh pháp khoa học: **_Vinca_**, từ tiếng Latinh _vincire_ nghĩa là "trói buộc, cùm xích") là một chi của 5 loài trong họ La bố ma (_Apocynaceae_), có nguồn gốc
**Dẻ gai châu Âu** (danh pháp khoa học: _Fagus sylvatica_) là một loài thực vật thuộc họ Fagaceae. Nó là loài cây lớn, có thể cao đến 49 m (160 ft) và đường kính cây lên đến
**Sóng nhiệt châu Âu tháng 7 năm 2019** là thời kỳ thời tiết nóng đặc biệt liên tục, thiết lập mức cao mọi thời đại kỉ lục nhiệt độ ở Bỉ, Pháp, Đức, Luxembourg, Hà
nhỏ|phải|[[Quả mọng Viburnum opulus]] **Vót châu Âu** (danh pháp hai phần: **_Viburnum opulus_**) là một loài thực vật có hoa trong họ Ngũ phúc hoa (trước đây xếp trong Họ Kim ngân) có nguồn gốc
**Mận châu Âu** (danh pháp hai phần: _Prunus domestica_) là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa hồng. Một loài cây rụng lá, bao gồm nhiều loại cây ăn quả được gọi là
**Hoẵng châu Âu** (_Capreolus capreolus_) (tiếng Anh: **Roe Deer**) là một loài động vật có vú guốc chẵn thuộc Họ Hươu nai. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758. Chúng có kích thước tương
**Chi Lợn** (hay **heo** theo phương ngữ miền Nam của tiếng Việt) là một chi động vật móng guốc có nguồn gốc ở đại lục Á-Âu được gộp nhóm tổng thể với danh pháp khoa
thumb|Ước tính GDP bình quân đầu người của các quốc gia châu Âu và châu Á từ năm 1500-1950 với [[sức mua tương đương theo dollar quốc tế năm 1990 của nhà kinh tế học
phải|Phân chia trước năm 1989 giữa "Tây" (màu xám) và "Khối Đông" (màu cam) chồng lên biên giới hiện thời: Nga (màu cam sẫm), các quốc gia khác xưa kia thuộc [[Liên Xô (màu cam
**Mèo rừng** là một phức hợp loài gồm hai loài mèo rừng nhỏ, mèo rừng châu Âu (_F. silvestris_) và mèo rừng châu Phi (_Felis lybica_), có nguồn gốc từ châu Âu, Tây Á và
**Nai sừng tấm Á-Âu** (Danh pháp khoa học: _Alces alces_) là một loài thú trong phân họ Capreolinae thuộc họ hươu nai (Cervidae). Đây là loài thú to lớn nhất và nặng nhất còn tồn
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
**Châu Đại Dương** hay **Châu Úc** (_Oceania_) là một khu vực địa lý bao gồm Melanesia, Micronesia, Polynesia và Australasia. Châu lục này trải trên Đông Bán cầu và Tây Bán cầu, có diện tích
**Cú đại bàng Á Âu** (danh pháp hai phần: **_Bubo bubo_**), còn gọi là **cú đại bàng**, là một loài cú lớn cư trú ở đại lục Á Âu. Đây là một trong những loài
**Hải âu cổ rụt Đại Tây Dương** (danh pháp khoa học: **_Fratercula arctica_**) là một loài chim biển trong họ Alcidae. Đây là loài hải âu cổ rụt bản địa duy nhất của Đại Tây
**Rừng hỗn hợp Hyrcania Caspi** là khu rừng đất thấp rậm rạp và vùng sinh thái thuộc quần xã sinh vật Rừng lá rộng và hỗn hợp ôn đới. Nó có diện tích khoảng ,
**Bò rừng Ấn Độ** (Danh pháp khoa học: _Bos primigenius namadicus_) là một phân loài của bò rừng châu Âu đã tuyệt chủng. Đây được coi là tổ tiên của loài bò u (bò Zebu)
phải|nhỏ|300x300px| Từ những năm 1200, nó đã trở thành một khu rừng được sử dụng và bảo vệ đặc biệt ở Ba Lan. Trong hướng nhìn này từ không gian, màu sắc khác nhau có
[CHÍNH HÃNG] LINEABON K2D3 – Hỗ trợ tăng chiều cao, hết còi xương - Sản phẩm CHÍNH HÃNG nổi tiếng tại Châu ÂuLà cha mẹ, có phải bạn luôn cảm thấy lo lắng khi bé
**Con lợn** hay **con heo** là loài vật đã gắn bó lâu đời với con người và xung quanh đó là nhiều câu chuyện trong văn hóa đại chúng về con lợn. Trong văn hóa,
thumb|Ánh mặt trời vào mùa đông ở Sonian. thumb| thumb|Tia nắng le lói vào mùa đông ở Sonian. **Rừng Sonian** (, ) hay **rừng Soignies** là một khu rừng phân mảnh có diện tích 4.383
**Sói Á Âu** (_Canis lupus lupus_), cũng gọi là **sói thông thường** hoặc **sói rừng Trung Nga**, là một phân loài của sói xám đặc hữu ở châu Âu và rừng và thảo nguyên của
**Chó rừng** là tên gọi một số loài động vật thuộc họ Chó, thông thường được giới hạn trong ba loài: loài chó rừng lưng đen và chó rừng vằn hông của vùng cận Sahara
thumb|Hộp sọ [[Cro-Magnon 1 của một cá nhân già lão]] **Người hiện đại Châu Âu sơ khai** (; viết tắt là **EEMH**), hay **người Cro-Magnon** (phiên âm tiếng Việt: **Crômanhôn** hay **Crô-manhông**), là các quần
**Bắc Âu** là khu vực nằm ở phía Bắc của châu Âu, nằm ở các vĩ độ cao nhất của châu Âu. Là nơi có địa hình băng hà cổ, thiên nhiên của vùng cũng
**Vườn quốc gia Rừng Casentinesi, Monte Falterona, Campigna** là một vườn quốc gia của Ý. Được thành lập vào năm 1993, vườn quốc gia có diện tích 368 km vuông nằm về hai phía của lưu
**Lợn hoang** hay **lợn thả rông** là một thuật ngữ mô tả về bất kỳ những con lợn hay loại lợn hoang dã, heo rừng hoặc lợn đi hoang, lợn thả rông ở Bắc Mỹ,
nhỏ|200x200px| Rừng trên bờ Biển Đen Bulgaria. nhỏ|200x200px| Vị trí địa lý của vùng sinh thái rừng hỗn hợp Balkan Các **khu rừng hỗn hợp Balkan** tạo thành một vùng sinh thái trên cạn của
Theo Chương trình con người và khu dự trữ sinh quyển của UNESCO, hiện nay có 290 khu dự trữ sinh quyển được công nhận như là một phần của mạng khu dự trữ sinh
thumb|_Oriolus oriolus_ :_Bài này nói về một loài chim, nó còn là tên gọi của một chi thực vật là chi Saraca thuộc phân họ Vang._ **Vàng anh Á Âu** hay **hoàng anh Á Âu**
**Báo đốm châu Âu** (danh pháp hai phần: _Panthera (onca) gombaszoegensis_) đã sinh sống khoảng 1,5 triệu năm trước, và là loài _Panthera_ được biết đến sớm nhất từ châu Âu. Hóa thạch đầu tiên
**Gấu nâu Á Âu** (danh pháp ba phần: _Ursus arctos arctos_) là một phân loài gấu nâu, được tìm thấy khắp lục địa Á Âu. Gấu nâu Á Âu còn có tên gọi khác **gấu
Bộ sản phẩm làm trắng răng công nghệ đèn lạnh tăng cường, tiêu chuẩn Châu Âu sẽ mang lại vẻ đẹp tự nhiên cho hàm răng, tạo nên sự tự tin khi giao tiếp. Hệ