Trong thần thoại Hindu, Rāhu (Tiếng Phạn: राहु)(Tập tin:Ascending node (fixed width).svg), phiên âm tiếng Việt thành La Hầu, là một con rắn đôi khi nuốt mặt trời hay Mặt Trăng gây ra hiện tượng thiên thực. Vị thần này được miêu tả trong nghệ thuật như là một con rồng không có thân, cưỡi trên một cỗ xe do tám con ngựa ô kéo. La Hầu là một trong các navagraha (chín hành tinh) của chiêm tinh học Vệ Đà. Rahu kala được coi là điềm gở.
Theo truyền thuyết, trong Samudra manthan, a-tu-la La Hầu đã uống một chút rượu tiên. Nhưng trước khi rượu tiên này trôi qua cổ họng của ông, Mohini (hiện thân nữ giới của thần Vishnu) đã cắt đầu ông. Tuy nhiên, cái đầu này là trường sinh. Người ta tin rằng cái đầu trường sinh này đôi khi nuốt Mặt Trăng hay mặt trời, gây ra nguyệt thực hay nhật thực. Sau đó, Mặt Trăng hay mặt trời thoát ra khỏi lỗ hở ở cổ và kết thúc hiện tượng thực.
Về mặt thiên văn học, La Hầu và Kế Đô đánh dấu hai giao điểm trên giao tuyến của các mặt phẳng chứa hai đường bạch đạo và hoàng đạo (tương ứng là đường di chuyển của Mặt Trăng và Mặt Trời khi chúng di chuyển trên bầu trời. Vì thế, La Hầu và Kế Đô tương ứng được gọi là các giao điểm Mặt Trăng bắc và nam. Một thực tế là hiện tượng thực chỉ xảy ra khi Mặt Trời và Mặt Trăng cùng Trái Đất nằm trên một đường thẳng đi qua một trong hai điểm này đã sinh ra huyền thoại về việc nuốt Mặt Trời hay Mặt Trăng.
Trong Phật giáo, La Hầu là một trong krodhadevatas (thần linh cảm khiếp sợ).
Huyền thoại về Shiva và La Hầu
Có một lila khác về Shiva và La Hầu, có lẽ lấy từ Shiva Purana, được Joseph Campbell diễn giải trong sách The Power of Myth của ông. Ganna Chakra cũng diễn giải huyền thoại này như sau (Tạm dịch):
Trong huyền thoại về vua Daitya là Jalandhara, Jalandhara đã giao cho La Hầu truyền tin tới Shiva, yêu cầu vị thần này phải nộp Parvati cho Jalandhara. Shiva bực tức với thông điệp này, và cơn giận dữ biến thành một quái vật, xuất hiện từ con mắt thứ 3 trên trán của ông. Quái vật này có mặt sư tử, hai mắt rực lửa, thân khô cứng và gồ ghề, tay dài và lưỡi thè ra với cơn giận dữ. Quái vật lao vào La Hầu, sẵn sàng nuốt chửng ông. Shiva dường như nói một điều gì đó cùng với câu "chúng ta không triệt hạ sứ giả" trong khi quái vật van nài với Shiva rằng nó bị khổ sở vì cơn đói. Shiva nói với nó rằng nếu quá đói, nó nên ăn thịt của chính mình. Quái vật đã làm điều này cho tới khi chỉ còn lại cái đầu của chính mình. Shiva, vui mừng với sự thành tâm này, đã chỉ định nó làm người giữ cửa của ông, giao nhiệm vụ cho nó tạo ra sự khiếp sợ cho những kẻ có tội lỗi. Shiva cũng quy định rằng nó phải được thờ cúng cùng với sự thờ cúng ông, và đặt tên cho nó là Kirtimukha.
Chiêm tinh học
Trong chiêm tinh học Vệ Đà, La Hầu được nhìn nhận như là một a-tu-la hay một con quỷ cố gắng biến bất kỳ lĩnh vực nào mà ông kiểm soát thành hỗn loạn, thần bí và tàn nhẫn. Ông gắn liền với thế giới của biểu lộ vật chất và dục vọng trần tục; và của sự phát triển ngẫu nhiên, không kiểm soát không có hiểu biết. La Hầu là một karaka hay chỉ thị về danh vọng thế giới, sự tham lam, tri thức cao, mánh khóe, hành vi ám ảnh, kẻ ngoại lai, dịch bệnh, mất trí và sức ỳ. Tuy nhiên, nếu sử dụng đúng cách, La Hầu có thể trở thành phương tiện trong củng cố sức mạnh của cá nhân và chuyển hóa ngay cả kẻ thù mạnh nhất thành bạn bè.
La Hầu là chúa tể của 3 nakshatra hay 3 cung Mặt Trăng: Ardra, Svati và Shatabhisha hay Shatataraka. La Hầu gắn liền với những điều sau: màu là khói, kim loại là chì và đá quý là hessonit màu vàng mật ong. Nguyên tố của nó là khí và hướng là tây nam.
Trong chiêm tinh học Trung Hoa, La Hầu (羅喉) và Kế Đô (計都) là hai hư tinh trong thất chánh tứ dư, với thất chánh là Thái Dương, Thái Âm, Thái Bạch, Mộc Đức, Thủy Diệu, Vân Hán, Thổ Tú còn tứ dư bao gồm Nguyệt Bột, Tử Khí, La Hầu và Kế Đô. Thực chất La Hầu và Kế Đô chỉ là hai giao điểm trên hoàng đạo và bạch đạo (tương ứng là giao điểm của các đường di chuyển của Mặt Trời và Mặt Trăng trên thiên cầu).
Phật giáo
La Hầu được đề cập rõ ràng trong một cặp kinh từ Samyutta Nikaya (Tương ưng Bộ Kinh) của kinh sách Pali. Trong Candima Sutta và Suriya Sutta, La Hầu tấn công Chandra, thần Mặt Trăng và Suriya, thần mặt trời, trước khi buộc phải thả họ ra bởi họ đã đọc một đoạn thơ ngắn truyền đạt sự tôn kính của họ đối với Thích-ca Mâu-ni. Đức Phật đáp lại bằng cách sai khiến La Hầu phải thả họ, và La Hầu phải làm điều này nếu không thì "đầu của ông ta sẽ bị vỡ ra thành bảy mảnh".
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
Trong thần thoại Hindu, **Rāhu (Tiếng Phạn: राहु)(Tập tin:Ascending node (fixed width).svg)**, phiên âm tiếng Việt thành **La Hầu**, là một con rắn đôi khi nuốt mặt trời hay Mặt Trăng gây ra hiện tượng
nhỏ|Đức Phật (giữa) và Tôn Giả La Hầu La (trái). Tranh tại một ngôi chùa Thái Lan **La-hầu-la** (tiếng Phạn: _Rāhula_; tiếng Trung: 羅睺羅 nghĩa là _Phú Chướng_, nghĩa là "_sự chướng ngại_") là một
**Chu La Hầu** (chữ Hán: 周罗睺, 541 – 604), tên tự là **Công Bố**, người Tầm Dương, Cửu Giang, là tướng lĩnh nhà Trần và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Làm tướng
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝全成皇后, ; 24 tháng 3, năm 1808 - 13 tháng 2, năm 1840), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là
Thông số kỹ thuật đế dán bằng hậu môn Holister 57:Kích thước vòng gắn 57mm (2-1/4″)Vòng cắt tối đa 38mm (1-1/2″)Chất liệu: 2 loại Hydrocolloid bao gồm 60% CMC (Carboxymethylcellulose) và 40% Pectin.Đế dán bằng
Thông số kỹ thuật đế dán bằng hậu môn Holister 57:Kích thước vòng gắn 57mm (2-1/4″)Vòng cắt tối đa 38mm (1-1/2″)Chất liệu: 2 loại Hydrocolloid bao gồm 60% CMC (Carboxymethylcellulose) và 40% Pectin.Đế dán bằng
nhỏ|300x300px|Mật độ dân số và độ cao so với mực nước biển ở Thành phố Hồ Chí Minh (2010) **Biến đổi khí hậu ở Việt Nam** sẽ dẫn đến một thực trạng, trong những thập
Thời kỳ 386-394 **Hậu Yên** (384 – 409) do Mộ Dung Thùy chiếm Liêu Hà thành lập nhà Hậu Yên. Năm 384 (Yên Nguyên nguyên niên, Hậu Yên), quý tộc Mộ Dung Thùy của Tiền
**Hậu chấn tâm lý** hay **rối loạn căng thẳng sau sang chấn/chấn thương** (tiếng Anh: **_p**ost-**t**raumatic **s**tress **d**isorder_ – PTSD) là một rối loạn tâm thần có thể phát triển sau khi một người tiếp
nhỏ|Một cầu thủ [[Bolton Wanderers F.C.|Bolton (áo trắng) là hậu vệ, đang cố gắng cản tiền đạo Fulham (áo xanh) không cho tạt bóng. Tuy nhiên cầu thủ này thật ra là tiền đạo, đang
thumb|upright=1.35|right|alt=Bản đồ toàn cầu về sự tăng nhiệt độ nước biển từ 0,5 đến 300 độ Celsius; nhiệt độ đất liền tăng từ 10000 đến 20000 độ Celsius; và nhiệt độ vùng Bắc cực tăng
**Hậu Triệu** (tiếng Trung giản thể: 后赵, phồn thể: 後趙, bính âm: Hòuzhào; 319-352) là một quốc gia thuộc Ngũ Hồ thập lục quốc trong thời Đông Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nhà nước này
**Hiếu Huệ Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠张皇后; 202 TCN - 163 TCN), là Hoàng hậu duy nhất của Hán Huệ Đế Lưu Doanh, Hoàng đế thứ hai của nhà Hán và là cháu gọi
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Hậu Chu Thái Tổ** (chữ Hán: 後周太祖), tên thật là **Quách Uy** (郭威) (904 - 954), thụy là **Thánh Thần Cung Túc Văn Vũ Hiếu Hoàng Đế**, là một trong những vị Hoàng đế thời
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Bác Nhĩ Tế Cát Đặc Phế hậu** (chữ Hán: 博爾濟吉特废后), còn gọi **Thanh Thế Tổ Phế hậu** (清世祖废后) hoặc **Phế hậu Tĩnh phi** (废后静妃), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Thanh Thế
**Hàu đá Sydney** (Danh pháp khoa học: **_Saccostrea glomerata_**) hay còn gọi là **hàu đá New Zealand** hay là **hàu tròn** là một loại hàu trong họ Ostreidae. Đây là loài có giá trị kinh
**Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝静成皇后, ; 19 tháng 6, năm 1812 - 21 tháng 8, năm 1855), còn gọi **Hiếu Tĩnh Khang Từ Hoàng hậu**, **Khang Từ Hoàng thái hậu** hay **Khang
**Hậu cần bên thứ ba** (viết tắt là **3PL**, hoặc **TPL**) trong quản lý chuỗi cung ứng và hậu cần là việc công ty sử dụng các doanh nghiệp bên thứ ba để thuê ngoài
**Hiếu Linh Tống hoàng hậu** (chữ Hán: 孝靈宋皇后; ? - 178) là Hoàng hậu đầu tiên của Hán Linh Đế Lưu Hoằng - Hoàng đế nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Bà là
thumb|[[Michael Jordan, người được coi là hậu vệ ghi điểm (và cầu thủ) vĩ đại nhất mọi thời đại tại NBA]] **Hậu vệ ghi điểm** (**Shooting Guard**), còn được biết đến như vị trí số
nhỏ|Clathrate hydrat được xác định là tác nhân có thể gây ra thay đổi đột ngột. **Biến đổi khí hậu đột ngột** xảy ra khi hệ thống khí hậu bị buộc phải chuyển đổi với
MÔ TẢ SẢN PHẨMTúi hậu môn nhân tạo Hollister 70mm Và 57mm dùng gắn vào đế Hollister 70mm Và 57mm rất rất an toàn và hiệu quảsản phẩm chỉ có túi chưa có đế khách
Trẻ em có thể ăn hàu, tuy nhiên, bạn phải chờ trẻ lớn, đủ tuổi, cũng chỉ nên cho trẻ ăn một lượng hàu vừa đủ, đảm bảo hàu bạn mua là hàu tươi sạch,
Trẻ em có thể ăn hàu, tuy nhiên, bạn phải chờ trẻ lớn, đủ tuổi, cũng chỉ nên cho trẻ ăn một lượng hàu vừa đủ, đảm bảo hàu bạn mua là hàu tươi sạch,
[[Tập tin:五代后唐(繁).png| ]] **Nhà Hậu Đường** là một trong năm triều đại trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, cai trị Bắc Trung Quốc từ năm 923 đến năm 937 ## Thành lập Lý Khắc
Thời kỳ 386-394 **Hậu Tần** (384 – 417) là một quốc gia thời Ngũ Hồ Thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc của người tộc Khương, tồn tại từ năm 384 đến năm 417.
**Hậu Chu Thế Tông** (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là **Sài Vinh** (柴榮) và sau đó đổi thành **Quách Vinh** (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị
Tượng Thoại Ngọc Hầu trong đền thờ ông tại [[núi Sam]] **Thoại Ngọc hầu** (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761–1829), tên thật là **Nguyễn Văn Thoại** (chữ Hán: 阮文瑞), là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch
**Hạ Hầu Anh** (chữ Hán: 夏侯嬰, ? - 172 TCN) là công thần khai quốc nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, người huyện Bái (nay thuộc tỉnh An Huy, Trung Quốc). ## Sự nghiệp
**Lã Quang** () (337–400), tên tự **Thế Minh** (世明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Lương Ý Vũ Đế** ((後)涼懿武帝), là hoàng đế khai quốc của nước Hậu Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Linh Chiếu hoàng thái hậu** (chữ Hán: 靈詔皇太后, trước năm 1108 - tháng 7, 1161), còn được biết đến là **Lê Thái hậu** (黎太后) hay **Cảm Thánh phu nhân** (感聖夫人), một phi tần của Lý
**Hậu truyện** (còn gọi là **phần sau**, ) là một câu chuyện, tài liệu hay các tác phẩm văn học, phim ảnh, nhạc kịch, hay trò chơi có cốt truyện tiếp tục hoặc mở rộng