✨Chu La Hầu

Chu La Hầu

Chu La Hầu (chữ Hán: 周罗睺, 541 – 604), tên tự là Công Bố, người Tầm Dương, Cửu Giang, là tướng lĩnh nhà Trần và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc.

Làm tướng nhà Trần

Cha là Chu Pháp Cảo, làm quan nhà Lương, trài qua các chức tước: Quan quân tướng quân, Thủy Hưng thái thú, Thông trực tán kỵ thường thị, Nam Khang nội sử, Lâm Chưng huyện hầu.

La Hầu lên 15 tuổi, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, thích săn bắn, tính hào hiệp phóng đãng, tập hợp những kẻ vong mệnh, ngầm học tập binh thư. Ông chú họ (tòng tổ) là Chu Cảnh Ngạn răn đe, ông rốt cục không thay đổi.

Thời Trần Tuyên đế, nhờ quân công, được thụ Khai viễn tướng quân, Cú Dung lệnh. Sau đó theo Đại đô đốc Ngô Minh Triệt cùng quân Bắc Tề giao chiến ở Giang Dương, bị tên lạc trúng mắt trái. Quân Tề vây Minh Triệt ở Túc Dự, mọi người chỉ biết nhìn nhau, chẳng còn lòng dạ nào. La Hầu thúc ngựa đột vây, không ai địch nổi. Thái phó khanh Tiêu Ma Ha nhân đó theo sau, chém giết không sao đếm xuể. Quân Trần đến Từ Châu, cùng tướng Bắc Chu là Lương Sĩ Ngạn giao chiến ở Bành Thành, Ma Ha lâm trận ngã ngựa, ông đến cứu, nhấc Ma Ha quay lại trận địa, dũng trùm ba quân. Minh Triệt thất bại, La Hầu bảo toàn cánh quân của mình trở về, được bái Quang viễn tướng quân, Chung Li thái thú

Năm Thái Kiến thứ 11 (579), thụ Sứ trì tiết, đô đốc Hoắc Châu chư quân sự. Dẹp 12 động sơn tặc, nhận giai Hữu quân tướng quân, Thủy An huyện bá, thực ấp 400 hộ, tổng quản kiểm hiệu Dương Châu nội ngoại chư quân sự. Được ban 300 lạng vàng bạc, chia hết cho tướng sĩ, thưởng thêm cho những người khỏe mạnh, Tuyên đế rất thán phục. Ra làm Tấn Lăng thái thú, tiến tước làm hầu, tăng phong 1000 hộ. Nhận giai Thái phó khanh, tăng phong gồm cả số đã có là 1600 hộ. Lại được nhận giai Hùng tín tướng quân, Sứ trì tiết, đô đốc Dự Chương 10 quận chư quân sự, Dự Chương nội sử. La Hầu xét án thẳng thắn, quyết đoán, không màng quan hệ, không tham của đút, nên được dân chúng cảm ơn, lập bia ca tụng công đức.

Trong những năm Chí Đức (583 – 586), nhận chức Trì tiết, đô đốc Nam Xuyên chư quân sự. Giang Châu tư mã Ngô Thế Hưng mật tấu La Hầu rất được lòng người, tập hợp quân đội Lĩnh Nam, lòng dạ khó lường. Trần Hậu Chủ ngờ vực, bọn Tiêu Ma Ha, Lỗ Quảng Đạt bảo lãnh ông. Có người biết, khuyên La Hầu phản, ông cự tuyệt. Sau khi về triều, nhận chức Thái tử tả vệ soái, càng được tín nhiệm. Trong buổi tiệc đêm, Hậu Chủ hỏi: "Chu tả soái là võ tướng, mà làm thơ đều hoàn thành trước cả văn sĩ, sao vậy?" Đô quan thượng thư Khổng Phạm đáp: "Chu La Hầu chấp bút làm thơ, cũng như lên ngựa vào trận, không ở sau người." Từ đây càng được kính trọng. Ra làm đốc Tương Châu chư quân sự, về triều được bái làm Tán kỵ thường thị.

Quân Tùy nam tiến, La Hầu làm đô đốc Ba Hạp, Duyên giang chư quân sự, để chống lại Tần vương Dương Tuấn, cánh quân của ông không thể vượt sông, dằng co hàng tháng. Gặp lúc Đan Dương thất thủ, Hậu Chủ bị bắt, La Hầu vẫn mắc lại ở thượng du Trường Giang, Tấn vương Dương Quảng gởi thư của Hậu Chủ mệnh cho ông đầu hàng, La Hầu cùng chư tướng kêu khóc 3 ngày, rồi mới ra hàng.

Làm tướng nhà Tùy

Tùy Văn đế vỗ về, hứa hẹn giàu sang, ông rơi nước mắt đáp: "Thần được họ Trần hậu đãi, bản triều mất đi, chẳng giữ được rường mối. Bệ hạ ra ơn, được toàn mạng là may, phú quý vinh lộc, không phải mong mỏi của thần." Văn đế rất kính trọng. Hạ Nhược Bật nói với ông rằng: "Nghe tin ngài bị điều đi Dĩnh, Hán, biết ngay Dương Châu có thể lấy được. Quân đội vượt sông thuận lợi, quả như suy đoán." La Hầu đáp: "Nếu được cùng ngài đối đầu, thắng bại chưa thể biết được." Mùa thu năm ấy, được bái làm Thượng nghi đồng tam tư, ban Cổ xuy, Vũ nghi, đưa các lễ nghi này đến tận nhà. Trước đó, bì tướng Dương Tường hàng Tùy, nhận làm hướng đạo, quan vị đến Thượng khai phủ, ban cho ở trên ông, Hàn Cầm Hổ ở triều đường bỡn rằng: "Không biết cơ biến, đứng dưới cả Dương Tường, có xấu hổ không?" La Hầu đáp: "Xưa ở Giang Nam, nhận lệnh dò hỏi, biết ngài là kẻ sĩ có tiết tháo trong đời. Hôm nay nói như vậy, không phải là lời của bậc trung thần." Cầm Hổ có vẻ thẹn. Mùa đông năm ấy, nhận chức Bân Châu thứ sử, ít lâu chuyển làm Kính Châu thứ sử. Mẹ mất nên rời chức, chưa đến kỳ hạn, lại được khởi dụng, thụ Bân Châu thứ sử, đều được tiếng là có năng lực.

Năm Khai Hoàng thứ 18 (598), nhà Tùy phát động chiến dịch Liêu Đông, La Hầu được trưng làm Thủy quân tổng quản. Từ Đông Lai ra biển, nhắm đến thành Bình Nhưỡng; gặp gió, mất phần lớn số thuyền, vô công mà về.

Năm thứ 19 (599), Đạt Đầu khả hãn của Đột Quyết xâm phạm biên cương, theo Dương Tố đánh trả. Quân Đột Quyết rất nhiều, La Hầu trình với Tố: "Trận thế của giặc chưa tề chỉnh, xin đánh ngay." Tố đồng ý, ông cùng 20 khinh kỵ xông vào trận địch, giao chiến từ giờ Thân đến giờ Dậu, bộ binh Tùy nối nhau tiếp ứng, đại phá quân Đột Quyết. Được tiến vị Đại tướng quân.

Năm Nhân Thọ đầu tiên (601), làm Đông cung hữu ngu hậu soái, được ban tước Nghĩa Ninh quận công, thực ấp 1500 hộ. Ít lâu sau chuyển làm Hữu vệ suất.

Dượng đế lên ngôi, thụ Hữu vũ hậu đại tướng quân. Hán vương Dương Lượng phản, nhận chiếu theo Dương Tố đánh dẹp, được tiến thụ Thượng đại tướng quân. Mùa đông năm ấy, Đế đến Lạc Dương, Trần Hậu Chủ mất, La Hầu xin khóc viếng, đế cho. Ông khoác tang phục đến mộ, làm lễ xong thì trở về, cởi tang phục rồi vào triều. Đế rất hài lòng, người đời khen La Hầu có lễ độ. Khi ấy tàn dư của Dương Lượng chiếm cứ 3 châu Tấn, Giáng, Lữ, có chiếu cho ông làm hành Tấn, Giáng, Lữ 3 châu chư quân sự, tiến binh vây đánh. La Hầu bị trúng tên lạc, mất ở trong quân, hưởng thọ 64 tuổi.

Trên đường đưa linh cữu về kinh, đi được vài dặm, ngựa kéo xe vô cớ dừng lại, bị roi quất vẫn bất động, rồi gió lốc nổi lên, cuốn theo bụi mù trời. Giáng Châu trưởng sử Quách Nhã lạy dập đầu, khấn rằng: "Ngài hận bọn giặc nhỏ chưa dẹp chăng? Sắp trừ xong rồi, chẳng có gì đáng để luyến hận!" Sau đó gió lặng, ngựa đi tiếp, người chứng kiến không ai không cảm thán. Tháng 7 mùa thu năm ấy, con La Hầu là Chu Trọng Ẩn mơ thấy ông nói: "Ngày mai, ta sẽ ra trận." Hôm sau, cung tên đao kiếm nơi bàn thờ của La Hầu, vô cớ rung động, trông như có người đang sử dụng. Ngày hôm ấy, thành Giáng Châu thất thủ.

Triều đình tặng Trụ quốc, Hữu dực vệ đại tướng quân; thụy là Tráng. Tặng vật có ngàn tấm lụa. Con là Chu Trọng An kế tự, làm đến Thượng khai phủ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chu La Hầu** (chữ Hán: 周罗睺, 541 – 604), tên tự là **Công Bố**, người Tầm Dương, Cửu Giang, là tướng lĩnh nhà Trần và nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc. ## Làm tướng
**Chủ nghĩa hậu hiện đại** là một xu hướng trong nền văn hóa đương đại được đặc trưng bởi sự chối bỏ sự thật khách quan và siêu tự sự. Chủ nghĩa hậu hiện đại
**Chu hoàng hậu** có thể là: * Chu hoàng hậu (朱皇后), hoàng hậu của Ngô Cảnh Đế thời Tam Quốc. * Chu hoàng hậu (朱皇后), hoàng hậu của Bắc Chu Tuyên Đế. * Chu hoàng
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Loạn chư Lã** (chữ Hán: 诸吕之乱), **Loạn chư Lữ**, đôi khi còn gọi là **Tru Lã an Lưu** (誅呂安劉), là một chuỗi sự kiện tranh chấp quyền lực trong triều đình nhà Hán của lịch
**Chủ nghĩa Hậu Marxist** (_Post-Marxism_) là một hệ thống lý luận triết học - lịch sử - kinh tế có nguồn gốc từ Chủ nghĩa Marx. Về mặt lý luận, chủ nghĩa Hậu Marxist phủ
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后), không rõ tên thật, là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Tiết Mẫn Đế Nguyên Cung trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Khá ít thông tin về
**Nhĩ Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 爾朱皇后) (không rõ tên thật) là Hoàng hậu của Bắc Ngụy Phế đế Nguyên Diệp trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Nhĩ Chu Hoàng hậu là con
phải|nhỏ| Mô hình khu vực của Clark cho nền kinh tế Hoa Kỳ 1850-2009 Trong xã hội học, **xã hội** **hậu công nghiệp** là giai đoạn phát triển của xã hội khi khu vực dịch
**Lã Sản** (chữ Hán: 呂產, ? – 180 TCN), không rõ biểu tự, người huyện Đan Phụ, quận Sơn Dương, nhân vật cuối thời Tần đầu thời Hán, cháu của Hoàng hậu Hán Cao Tổ
**Thiết kế hậu hiện đại** (tiếng Anh: _postmodernism_) được xem như sự tiếp tục của lối thiết kế hiện đại trong kiến trúc. So với trường phái thiết kế Hiện đại chỉ gồm những đường
thumb|right|Thuận chiều kim đồng hồ từ góc trên bên trái: [[Søren Kierkegaard, Fyodor Dostoevsky, Jean-Paul Sartre, Friedrich Nietzsche.]] **Chủ nghĩa hiện sinh** hay **thuyết hiện sinh** là luồng tư tưởng triết học của một nhóm
Combo Chú Sâu Háu Ăn - The Very Hungry Caterpillar - Mẹ Có Phải Là Mẹ Của Con Are You My Mother Bộ 2 cuốn 1. Chú sâu háu ăntên gốc The very hungry caterpillar
Picture Book Song Ngữ - Chú Sâu Háu ĂnThe very hungry caterpillar là cuốn truyện thiếu nhi nổi tiếng thế giới kể về câu chuyện trong bảy ngày của một chú sâu xanh. Lúc nào
Picture Book Song Ngữ - Chú Sâu Háu Ăn The very hungry caterpillar là cuốn truyện thiếu nhi nổi tiếng thế giới kể về câu chuyện trong bảy ngày của một chú sâu xanh. Lúc
**Triết học hậu hiện đại** là một trào lưu triết học phát sinh vào nửa sau của thế kỷ 20 như là một phản ứng phê phán đối với các giả định được cho là
Đầm suông nữ, váy suông nữ cộc tay mùa hè in chú gấu hau màu cá tính * ƯU ĐIỂM SẢN PHẨM - Mùa hè mặc đầm suông là quá đẹp ạ vừa thoải mái
Đầm suông nữ, váy suông nữ cộc tay mùa hè in chú gấu hau màu cá tính * ƯU ĐIỂM SẢN PHẨM - Mùa hè mặc đầm suông là quá đẹp ạ vừa thoải mái
**Nhà Chu** ( ) là vương triều thứ ba trong lịch sử Trung Quốc. Là triều đại tiếp nối nhà Thương, nhà Chu cũng là triều đại cuối cùng thực thi chế độ phong kiến
**Tổng cục Hậu cần** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập vào ngày 11 tháng 7 năm 1950 là cơ quan đầu ngành Hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam, có
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Chu thư** hay còn gọi là **Bắc Chu thư** hoặc **Hậu Chu thư** (chữ Hán giản thể: 周书; phồn thể: 周書) là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử
thumb|upright=1.35|right|alt=Bản đồ toàn cầu về sự tăng nhiệt độ nước biển từ 0,5 đến 300 độ Celsius; nhiệt độ đất liền tăng từ 10000 đến 20000 độ Celsius; và nhiệt độ vùng Bắc cực tăng
**Đảng Dân chủ** (tiếng Anh: _Democratic Party_), cùng với Đảng Cộng hòa, là một trong hai chính đảng lớn nhất tại Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ, truy nguyên nguồn gốc của mình đến thời Thomas
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Chư hầu nhà Chu** là những thuộc quốc, lãnh chúa phong kiến thời kỳ nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. ## Hình thành Nhà Chu vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân
**Nhĩ Chu Vinh** (, 493 -530), tên tự là **Thiên Bảo** (天寶), người Bắc Tú Dung, là tướng lĩnh, quyền thần nhà Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
**Hậu Chu Thái Tổ** (chữ Hán: 後周太祖), tên thật là **Quách Uy** (郭威) (904 - 954), thụy là **Thánh Thần Cung Túc Văn Vũ Hiếu Hoàng Đế**, là một trong những vị Hoàng đế thời
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Hiếu Tiết Liệt hoàng hậu** (chữ Hán: 孝節烈皇后; 10 tháng 5 năm 1611 - 24 tháng 4 năm 1644), là Hoàng hậu của Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế, vị hoàng đế cuối cùng của
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Hiếu Túc Chu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝肅周皇后; 30 tháng 10, 1430 - 16 tháng 3, 1504), là một phi tần của Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn và là sinh mẫu của Minh Hiến
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Hậu Chu Thế Tông** (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là **Sài Vinh** (柴榮) và sau đó đổi thành **Quách Vinh** (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị
**Chử Toán Tử** (chữ Hán: 褚蒜子, 324 - 384), là hoàng hậu dưới thời Tấn Khang Đế, vị vua thứ tư của nhà Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Chử Toán
**Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝定景皇后; ; 28 tháng 1 năm 1868 – 22 tháng 2 năm 1913), còn gọi là **Thanh Đức Tông Hoàng hậu** (清德宗皇后), **Long Dụ Hoàng hậu** (隆裕皇后) hay
**Hiếu Huệ Thiệu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠邵皇后 ; ? - 1522), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà sinh ra Hưng Hiến vương, truy tôn Minh Duệ Tông Chu
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Hiếu Định hoàng thái hậu** (chữ Hán: 孝定皇太后, 21 tháng 12, 1540 - 18 tháng 3 năm 1614), thường gọi là **Từ Thánh hoàng thái hậu** (慈聖皇太后) hoặc **Từ Ninh cung hoàng thái hậu** (慈寧宮皇太后),
**Vũ Thành Hoàng hậu** (chữ Hán: 武成皇后; 551–582), A Sử Na thị (阿史那氏) là Hoàng hậu duy nhất của Bắc Chu Vũ Đế Vũ Văn Ung, hoàng đế Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
nhỏ|300x300px|Mật độ dân số và độ cao so với mực nước biển ở Thành phố Hồ Chí Minh (2010) **Biến đổi khí hậu ở Việt Nam** sẽ dẫn đến một thực trạng, trong những thập
**Hầu Doanh** (侯嬴,?-257 TCN), còn gọi là Hầu Sinh, là ẩn sĩ nước Ngụy thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc, có công giúp Tín Lăng Quân Nguỵ Vô Kỵ đánh bại quân Tần
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với