Hậu Chu Thế Tông (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là Sài Vinh (柴榮) và sau đó đổi thành Quách Vinh (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị vì từ tháng 1 năm 954 tới tháng 6 năm 959. Sài Vinh Thế Tông được các sử gia đánh giá là đệ nhất minh quân thời Ngũ đại, vì tài thao lược trị quốc của ông.
Xuất thân
Sài Vinh là người Hình Châu, Nghiêu Sơn, Sài Gia Trang (nay là huyện Long Nghiêu, thành phố Hình Đài, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc).
Sài Vinh là con trai Sài Thủ Lễ, anh vợ Quách Uy (tức Hậu Chu Thái Tổ). Quách Uy không có con trai, nhận ông làm con và đổi họ tên ông thành Quách Vinh.
Năm 947, Quách Uy phò Lưu Tri Viễn lập nên nhà Hậu Hán, được phong làm Đại lý khu mật phó sứ, Quách Vinh được phong làm Tả Giám môn vệ tướng quân.
Cha nuôi Quách Vinh thành lập nhà Hậu Chu năm 951. Ông được phong Tiết độ sứ Thiền Châu (Bộc Dương, Hà Nam ngày nay), sau phong Thái Nguyên Quận Hầu. Năm 952 ông được phong Tấn Vương. Tháng giêng năm 954, Hậu Chu Thái Tổ giao cho ông cai quản quân đội. Cùng tháng, Quách Uy mất vì bệnh tật, Quách Vinh được kế thừa hoàng vị và giống như cha mình, Thế Tông được coi là vị Hoàng đế có năng lực.
Trị vì
Đối nội
Thế Tông cho hạ chỉ chiêu hiền nạp sĩ, tuyển mộ nhân tài. Vua cho phép quan lại các cấp đều có thể viết biểu chương trình tấu, giúp cho quân vương và bề tôi có sự trao đổi, từ đó phát hiện và tuyển dụng nhiều người tài cho đất nước. Thế Tông cho khôi phục lại chế độ khoa cử, chiêu mộ nhân tài trên phạm vi rộng lớn. Một số vị văn thần võ tướng thậm chí vẫn là trọng thần trong triều đình cho đến tận thời Bắc Tống
Sau khi chỉnh đốn mọi việc, Thế Tông hạ lệnh cho quân thừa thắng đánh luôn kinh đô Bắc Hán là Thái Nguyên. Tuy nhiên vì lương thảo trục trặc, lại thêm trời mưa liên tục làm sĩ tốt mệt mỏi, không còn ý chí nên phải hạ lệnh lui quân. Tháng giêng năm 956, Thế Tông thân chinh ra trận, trên đường bất ngờ chạm trán thủy quân Nam Đường đang muốn đánh úp Lý Cốc. Quân Nam Đường trở tay không kịp, chủ tướng Lưu Ngạn Trinh tử trận. Nhưng quân Nam Đường vẫn cố thủ Giang Hoài, Thọ Châu vẫn chưa thể hạ được.
Năm 957, Thế Tông thân chinh lần thứ 2, đánh bại quân Nam Đường đang viện trợ cho Thọ Châu. Số quân sĩ Nam Đường bị giết và bị bắt hơn 4 vạn người, chiến thuyền và khí giới thu được nhiều vô kể. Quân Hậu Chu ép được Thọ Châu đầu hàng, nhưng nghĩ đến mối họa người Khiết Đan nên Thế Tông chấp nhận lời cầu hòa của Nam Đường, ký kết hiệp ước "Thành hạ". Hiệp ước quy định: Nam Đường phải bỏ tôn hiệu hoàng đế, vua Nam Đường tự xưng là Quốc chủ, phải xưng thần với Hậu Chu; hàng năm phải cống nạp vàng bạc tơ lụa và cắt bỏ 14 châu ở Giang Bắc cho Hậu Chu.
Ngoài ra, Thế Tông cũng tấn công Hậu Thục, lấy được 4 châu Tần, Phượng, Thành, Giới (Cam Túc ngày nay).
Bắc phạt đánh Khiết Đan
Năm 959, Thế Tông hạ lệnh bắc phạt, đích thân dẫn quân đánh Liêu nhằm thu phục 16 châu Yên Vân mà Thạch Kính Đường cắt cho người Khiết Đan. Xuất binh được hơn 40 ngày, quân Hậu Chu thu được Tam Quan, tổng cộng giành được đất ở 3 châu và 17 huyện. Chính lúc này thì Thế Tông đổ bệnh, cuộc bắc phạt đành gác lại nửa chừng và phải rút quân. Người Khiết Đan sau đó đã tái thu hồi lại các vùng đất này.
Băng hà
Tháng 6 năm 959, Chu Thế Tông mất vì bệnh tật, thọ 38 tuổi. Trị vì được 6 năm, con nhỏ mới 7 tuổi là Sài Tông Huấn lên nối ngôi. Đó là Hậu Chu Cung Đế. Vua mới còn nhỏ tuổi nên bị Triệu Khuông Dẫn soán ngôi, đã dẫn tới sự diệt vong của nhà Hậu Chu và sự ra đời của nhà Tống. Ông được chôn cất tại Khánh Lăng.
Chu Thế Tông đã bắt đầu gây được một số áp lực lên nước Bắc Hán cát cứ ở Thái Nguyên cũng như cả Liêu ở phía bắc, mặc dù chưa đạt được mục tiêu đáng kể từ những áp lực này. Phía nam, ông thu được nhiều thành công hơn với một số chiến thắng trước Nam Đường với nhiều lần mở chiến dịch tấn công nước lớn nhất trong "Thập quốc" này. Ông còn tấn công nước Hậu Thục, tạo nền tảng cho sự thống nhất cuối cùng dưới thời đại nhà Tống.
Niên hiệu
- Hiển Đức (显德) 1/ 954 – 6/ 959
Gia quyến
- Cha:
Sài Thủ Lễ (cha ruột)
Hậu Chu Thái Tổ (cha nuôi)
- Vợ:
Trinh huệ Lưu Hoàng Hậu (nguyên phối)
Tuyên ý Phù Hoàng hậu (vợ kế, hay gọi là Đại Phù hậu, con gái Ngụy vương Phù Ngạn Khanh)
Tiểu Phù Hoàng hậu (vợ kế, em gái Đại Phù hậu, lấy Thế Tông sau khi chị mất)
- Con:
Việt Vương Sài Tông Nghị (柴宗誼)
Chết sớm không rõ
Chết sớm không rõ
Lương Vương Sài Tông Huấn (柴宗訓), sau này là Hậu Chu Cung Đế
Tào Vương Sài Hi Nhượng (柴熙讓)
Kỷ Vương Sài Hi Cẩn (柴熙謹)
Kỳ Vương Sài Hi Hối (柴熙誨)
Vua Hậu Chu
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hậu Chu Thế Tông** (chữ Hán: 後周世宗, 921 – 959), tên thật là **Sài Vinh** (柴榮) và sau đó đổi thành **Quách Vinh** (郭榮). Ông là Hoàng đế thứ hai của nhà Hậu Chu, trị
**Hiếu Liệt Phương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝烈方皇后; 25 tháng 8, 1516 - 29 tháng 12, 1547), là Hoàng hậu thứ ba của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. Bà không có với Thế Tông
**Hậu Chu Cung Đế** (chữ Hán: 後周恭帝; 14 tháng 9 năm 953 - 6 tháng 4 năm 973), tên thật **Sài Tông Huấn** (柴宗训), là vị Hoàng đế cuối cùng của nhà Hậu Chu thời
[[Tập tin:五代后周形势图(繁).png| ]] **Nhà Hậu Chu** (後周) (951-959) là triều đại cuối cùng trong số năm triều đại, kiểm soát phần lớn miền Bắc Trung Quốc trong thời Ngũ đại Thập quốc, một thời kỳ
**Hậu Chu Thái Tổ** (chữ Hán: 後周太祖), tên thật là **Quách Uy** (郭威) (904 - 954), thụy là **Thánh Thần Cung Túc Văn Vũ Hiếu Hoàng Đế**, là một trong những vị Hoàng đế thời
**Minh Thế Tông Trương Phế hậu** (chữ Hán: 明世宗張廢后; ? - 3 tháng 1, 1537), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Đế. ## Thân thế Trương thị tên **Thất Tỉ**
**Chu Thế Tông** (_chữ Hán_:周世宗) có thể là những vị quân chủ nhà Chu sau: ## Danh sách *Chu Thế Tông Cơ Tĩnh, vị quân chủ thứ 11 của nhà Tây Chu, có công trung
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Thế Tông** (chữ Hán: 世宗) là miếu hiệu của một số vị vua Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên. ## Việt Nam *Lê Thế Tông Lê Duy Đàm (1573-1600) ### Truy tôn *Nguyễn Thế
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 张昭, 894 – 972), tự **Tiềm Phu**, người huyện Phạm, Bộc Châu . Ông là sử quan đã hoạt động gần trọn đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống, phục
**Bắc Tề Hậu Chủ** (北齊後主, 557–577), tên húy là **Cao Vĩ** (高緯), tên tự **Nhân Cương** (仁綱), đôi khi được đề cập đến với tước hiệu do Bắc Chu phong là **Ôn công** (溫公), là
**Hiến Tông Ngô Phế hậu** (chữ Hán: 憲宗吳廢后; ? - 5 tháng 2, 1509), nguyên phối và là Hoàng hậu đầu tiên của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà là Hoàng hậu tại ngôi
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hiếu Minh Trịnh Thái hậu** (chữ Hán: 孝明鄭太后, ? - 26 tháng 12, 865), hay **Hiếu Minh Trịnh hoàng hậu** (孝明鄭皇后), là một cung nhân của Đường Hiến Tông Lý Thuần, đồng thời còn là
**Chiến tranh Tống-Khiết Đan** còn được gọi là **Chiến tranh Tống-Liêu** (1004 - 1005) chỉ các cuộc giao tranh giữa quân đội Bắc Tống và Khiết Đan trong năm 1004 ở khu vực phía bắc
**Binh biến Trần Kiều** (Hán tự: **陳橋兵變**) là cuộc đảo chính chính trị do Triệu Khuông Dẫn (927-976) cầm đầu, lật đổ nhà Hậu Chu, thành lập nên nhà Tống có thời gian tồn tại
**Vương Thái phi** (chữ Hán: 王太妃; ?- 23 tháng 6 năm 947), thường được gọi bằng tước hiệu lúc còn là phi tần là **Vương Thục phi** (王淑妃), là một phi tần của Hậu Đường
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Phan Mỹ** (chữ Hán: 潘美, 925 – 991), tên tự là **Trọng Tuân**, người phủ Đại Danh , là tướng lĩnh đầu đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nguyên mẫu của
**Hiếu An Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝安皇后, 20 tháng 2, 1536 - 6 tháng 8, 1596), còn gọi **Nhân Thánh Hoàng thái hậu** (仁聖皇太后) hay **Từ Khánh cung Hoàng thái hậu** (慈慶宮皇太后), là Hoàng hậu
**Chiêu Hiến Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 昭憲皇太后; 902 - 17 tháng 7, 961), là Hoàng thái hậu đầu tiên của nhà Tống với vai trò là sinh mẫu của Tống Thái Tổ Triệu Khuông
**Chiêu Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭德皇后, ? - 3 tháng 12, năm 786), là Hoàng hậu duy nhất của Đường Đức Tông Lý Quát và là thân mẫu của Đường Thuận Tông Lý Tụng
**Lý Mục** (chữ Hán: 李穆, 928 – 984), tên tự là **Mạnh Ung**, người Dương Vũ, Khai Phong , là sử gia, quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. ## Xuất thân
**Ý Đức Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿德皇后; 941 - 975), là kế thất của Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa, Hoàng đế nhà Tống trong lịch sử Trung Quốc. Cũng như Thục Đức Doãn Hoàng
**Đường Túc Tông Trương hoàng hậu** (chữ Hán: 唐肃宗張皇后; ? - 16 tháng 5, 762), cũng gọi **Trương Thứ nhân** (張庶人), là Hoàng hậu của Đường Túc Tông Lý Hanh, vị Hoàng đế thứ 8
**Đường Huyền Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐玄宗王皇后; ? - 724), cũng gọi **Huyền Tông Phế hậu** (玄宗廢后) hay **Huyền Tông Vương Thứ nhân** (玄宗王庶人), là nguyên phối Hoàng hậu của Đường Huyền Tông
**Hiếu Minh Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝明王皇后; 942 - 963), tuy là kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị đầu tiên của Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn. Đồng thời, bà là vị
**Hiếu Nghị Tương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝毅襄皇后; 1605 - 1646), Hoàng hậu duy nhất của Minh Thiệu Tông Long Vũ Đế, Hoàng đế thứ hai nhà Nam Minh. Bà cũng là Hoàng hậu đầu
**Nghĩa An Vương Thái hậu** (chữ Hán: 義安王太后, ? - 22 tháng 2, năm 845 ), còn gọi là **Bảo Lịch Thái hậu** (寶曆太后) hoặc **Cung Hi hoàng hậu** (恭僖皇后), là một phi tần của
**Nhĩ Chu Thế Long** (chữ Hán: 尒朱世隆, 500 – 532), tên tự là **Vinh Tông**, người Bắc Tú Dung xuyên , dân tộc Yết đã Tiên Ti hóa, thành viên gia tộc Nhĩ Chu, tướng
**_Về việc loại bỏ chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa hình thức và thiết lập chủ thể trong công tác tư tưởng_**, còn được gọi là **_Bài diễn văn Juche_**, là một bài diễn văn
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Thiên Thai tông** (zh. _tiāntāi-zōng_ 天台宗, ja. _tendai-shū_) là một tông phái Phật giáo Trung Quốc do Trí Di (538-597) sáng lập. Giáo pháp của tông phái này dựa trên kinh _Diệu pháp liên hoa_,
**Triều Tiên Thế Tông** (, Hanja: 朝鮮世宗, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397 – mất ngày 8 tháng 4 năm 1450) là vị quốc vương thứ tư của nhà Triều Tiên, Miếu hiệu Thế
**Hiếu Huệ Thiệu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠邵皇后 ; ? - 1522), là một phi tần của Minh Hiến Tông Chu Kiến Thâm. Bà sinh ra Hưng Hiến vương, truy tôn Minh Duệ Tông Chu
**Kim Thế Tông** (chữ Hán: 金世宗; 1123 – 1189), tên thật là **Hoàn Nhan Ô Lộc**, tên khác là **Hoàn Nhan Ung**, là vị hoàng đế thứ năm của nhà Kim trong lịch sử Trung
**Liêu Mục Tông** (chữ Hán: 遼穆宗; 19 tháng 9 năm 931 - 12 tháng 3 năm 969), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Liêu, cai trị từ năm 951 đến năm 969. Ông
**Cao Ly Quang Tông** (Hangul: 고려 광종, chữ Hán: 高麗 光宗; 925 – 4 tháng 7 năm 975, trị vì 949 – 975) là vị quốc vương thứ tư của Cao Ly. Ông là con
**Liêu Thế Tông** (chữ Hán: 遼世宗; 25 tháng 12, 918-4 tháng 9, 951 (Âm lịch), 29 tháng 1, 919-7 tháng 10, 951), tên thật là **Gia Luật Nguyễn**, tự **Ngột Dục**, là vị hoàng đế
**Hiếu Cương Khuông Hoàng hậu Vương thị** (chữ Hán: 孝剛匡皇后王氏; ? – 1662), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Chiêu Tông Vĩnh Lịch Đế, Hoàng đế cuối cùng của nhà Nam Minh trong lịch
[[Tập tin:五代后晋、后汉时形势图(繁).png| Sau năm 945, lãnh thổ nước Mân trước đây bị phân chia giữa Nam Đường, Ngô Việt và Thanh Nguyên quân
]] **Nhà Hậu Hán** (後漢) được thành lập năm 947. Đây
**Hiếu Khác hoàng hậu** (chữ Hán: 孝恪皇后; 1510 - 1554), họ Đỗ (杜氏), còn gọi là **Đỗ Khang phi** (杜康妃), nguyên là phi tần dưới triều Minh Thế Tông Gia Tĩnh hoàng đế. Bà chưa
**Thành Túc Hoàng hậu** (chữ Hán: 成肅皇后; 1132 - 1203), còn gọi là **Huệ Từ Hoàng thái hậu** (惠慈皇太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Hiếu Tông Triệu Bá Tông. ## Tiểu sử **Thành
**Cù Thị Hậu** (sinh 1944) là một chính khách Việt Nam, Anh hùng Lao động, lãnh đạo Công đoàn Việt Nam. Bà từng là Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam. ## Xuất thân
**Hậu Chủ** (chữ Hán: 后主) hay **Hậu Chúa** là tôn hiệu (thay thế thụy hiệu) của những vị vua cuối cùng trong một số triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam và lịch
**_Thế giới khi loài người biến mất_** (tiếng Anh: _The World Without Us_) là một tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu của nhà báo người Mỹ Alan Weisman. Quyển sách được xuất bản
**Tuyên Ý Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:宣懿皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Đường Mục Tông Tuyên Ý hoàng hậu
**Trinh Huệ Hoàng Hậu** (_chữ Hán_:貞惠皇后) là thụy hiệu của một số vị hoàng hậu trong lịch sử các triều đại phong kiến Trung Quốc. ## Danh sách *Hậu Chu Thế Tông Trinh Huệ hoàng