✨Hỏa khí nạp hậu

Hỏa khí nạp hậu

phải|nhỏ| Khoang đạn của lựu pháo 122 mm M1910, được sửa đổi và kết hợp với cỡ nòng 105 mm H37 phải|nhỏ| Quá trình hiển thị chu kỳ thao tác bắn cho một khẩu pháo nạp hậu của hải quân. Lưu ý rằng có một loạt các cánh cửa khóa vào nhau để đóng một con đường mở từ khoang súng xuống mà đèn flash có thể đi tới thùng chứa đạn. Hỏa khí nạp hậu là loại vũ khí mà người sử dụng chúng nạp đạn dược từ phía sau bộ phận nòng, khác với hỏa khí nạp phía trước phải nạp đạn từ miệng nòng.

Đa số loại hỏa khí hiện đại (trừ bản sao của các loại hỏa khí cổ điển) đều sử dụng phương thức nạp hậu. Tuy nhiên các loại hỏa khí được chế tạo cho đến giữa thế kỷ XIX đều sử dụng phương thức nạp tiền. Súng cối là hỏa khí hiện đại duy nhất còn lại sử dụng phương thức nạp tiền.

Lợi thế của hỏa khí nạp hậu đó là giảm thời gian nạp đan, do việc nạp đạn và thuốc phóng vào buồng chứa đạn nhanh hơn nhiều so với việc nạp từ phần miệng nòng và dùng que đẩy nén chúng xuống - đặc biệt khi đường đạn vừa khít và bộ phận nòng được gia công thêm rãnh xoắn (khương tuyến). Lợi thế của hỏa khí nạp hậu đối với các loại pháo dã chiến cũng tương tự - các kíp pháo không còn phải đi đến trước khẩu pháo và dùng gậy nhét mọi thứ xuống, và các phát bắn giờ đây vừa khít với nòng pháo, gia tăng tối đa độ chính xác. Nó cũng giúp dễ dàng nạp đạn kể cả đối với nòng bị lỗi. Các tháp súng và ụ súng được thiết kế nhỏ và gọn hơn trước, do kíp pháo không cần phải kéo pháo về để nạp lại đạn.

Kể từ khi phương thức nạp hậu trở nên phổ biến, nó cũng kéo theo hệ quả và việc lắp hệ thống giật vào các loại súng và pháo, tránh việc chúng bị giật lùi sau mỗi lần bắn. Điều này làm thời gian bắn nhanh hơn, nhưng không trực tiếp liên quan đến việc chúng có nạp đạn hay không. Giờ đây những khẩu pháo đã không còn bị giật lùi khi bắn, do đó kíp pháo có thể đứng gần nó để sẵn sàng nạp lại đạn và điều chỉnh mục tiêu, cự ly cho đợt bắn tiếp theo. Điều này đã dẫn đến việc trang bị tấm chắn thép lên xe pháo che chắn cho lính pháo khỏi các hỏa lực từ các loại vũ khí tầm xa và thậm chí là súng máy.

Lịch sử phát triển

phải|nhỏ| Bản thử nghiệm của loại pháo nạp hậu ba nòng của [[Henry VIII của Anh|vua Henry VIII, 1540–1543.]] phải|nhỏ| Những loại pháo nạp hậu và buồng chứa từ thế kỷ XV và XVI được trưng bày ở Bảo tàng quân đội Stockholm. Mặc dù hỏa khí nạp hậu đã được phát triển từ nửa sau thế kỷ XIV như ở Burgundy, phương thức nạp hậu chỉ trở nên phổ biến với sự phát triển của cơ khí chính xác và kỹ thuật gia công kim loại vào thế kỷ XIX.

Thách thức chính đối với những người chế tạo hỏa khí nạp hậu đó chính là việc khóa kín bộ phận khóa nòng. Điều đó đã được giải quyết đối với các loại hỏa khí cỡ nhỏ nhờ sự phát triển thành công kỹ thuật chế tác vỏ đạn kim loại. Đối với hỏa khí quá lớn để sử dụng vỏ đạn như đại pháo, vấn đề này được giải quyết bằng cách thiết kế ốc vít ở bộ phận khóa nòng.

Phật Lang Cơ pháo - Pháo nạp hậu cổ điển

Phật Lang Cơ pháo được phát minh vào thế kỷ XIV. Đó là một dạng đặc biệt của pháo swivel, pháo nạp hậu cỡ nhỏ được trang bị khớp xoay để dễ dàng quay, nạp đạn bằng một buồng độc lập đã chứa sẵn đạn và thuốc súng được lắp vào pháo và dùng lẫy để giữ cố định. Pháo có tốc độ bắn cao và đặc biệt hiệu quả trong vai trò chống bộ binh. Loại pháo này là sự lựa chọn hiệu quả và tiết kiệm trong thời điểm pháo bằng đồng chiếm ưu thế, và công nghệ đúc pháo bằng sắt chưa phát triển mạnh.

Súng tay

phải|nhỏ| Súng săn có khóa nòng của [[Henry VIII của Anh|Henry VIII, thế kỷ 16. Khối khóa nòng xoay bên trái trên bản lề và được nạp bằng đạn sắt có thể nạp lại được. Có thể nó được dùng làm súng săn bắn chim. Cơ chế khóa bánh xe của súng bị thiếu.]] phải|nhỏ| Súng nạp hậu thuộc về [[Felipe V của Tây Ban Nha|Philip V của Tây Ban Nha, do A. Tienza chế tạo ở Madrid vào khoảng năm 1715. Nó đi kèm với một hộp đạn có thể tái sử dụng sẵn sàng để nạp đạn. Súng sử dụng bộ khóa miquelet.]] phải|nhỏ| Cơ chế hoạt động của báng súng khóa nòng của Philip V (chi tiết). phải|nhỏ| Cơ chế nạp đạn của súng trường Ferguson. Súng cầm tay nạp hậu bắt đầu được ghi nhận từ thế kỷ XVI. Henry VIII sở hữu một khẩu dùng để săn bắn. Ở Trung Hoa, dạng súng cầm tay nạp hậu được biết đến đầu tiên xuất hiện vào nửa sau thế kỷ XVI do Triệu Sĩ Trinh chế tạo và phát triển với tên gọi là "Xiết điện súng". Cũng như nhiều loại súng cầm tay nạp hậu đầu tiên, rò rỉ khí là hạn chế và là nguy hiểm lớn nhất đối với cơ chế nạp hậu của chúng.

Nhiều loại súng cầm tay nạp hậu đã được chế tạo và phát triển từ đầu thế kỷ XVIII. Lịch sử đã ghi nhận một khẩu súng như vậy do vua Tây Ban Nha là Philip V sở hữu được chế tạo vào năm 1715, có thể đã được sản xuất ở Madrid. Nó được trang bị một loại vỏ đạn có thể tái sử dụng.

Patrick Ferguson, thiếu tá quân đội hoàng gia Anh, đã phát triển một loại súng kíp đá lửa nạp hậu vào năm 1772. Khoảng 200 khẩu đã được sản xuất và sử dụng trong trận Brandywine, nhưng ngay sau đó chúng bị ngừng sản xuất và được thay thế bằng khẩu súng Brown Bess.

Sau đó vào giữ thế kỷ XIX, đã có những nỗ lực nhằm phát triển hiệu quả bộ phận khóa nòng, chủ yếu tập trung vào việc cải tiến vỏ đạn và phương pháp đánh lửa khai hỏa.

Năm 1808, François Prélat và Jean Samuel Pauly đã hợp tác tạo ra đạn mới tích hợp giữa đạn và vỏ đạn chứa thuốc phóng: đầu đạn bằng đồng với thuốc nổ được trộn thủy ngân fulminat, một vòng đạn và vỏ bằng đồng hoặc giấy. Đạn được nạp qua khóa nòng và sử dụng kim hỏa đánh lửa. Việc sử dụng kim hỏa đánh lửa về sau trở thành cơ chế của các loại súng tay sau này. Loại súng tương ứng cũng được Pauly phát triển, Chủ yếu ở cỡ đạn 6 mm và 9 mm, được gọi là đạn Flobert nhưng nó không chứa thuốc phóng; thuốc phóng duy nhất có trong đạn chính là bộ gõ. Ở các quốc gia nói tiếng Anh, đạn Flobert tương ứng với loại đạn.22 BB và.22 CB.

Năm 1846, cũng một người Pháp khác là Benjamin Houllier đã được cấp bằng sáng chế nhờ vào việc chế tạo thành công loại đạn vỏ kim loại chứa thuốc phóng đầu tiên. Houllier đã quảng bá thành tựu của mình cùng với hai ngời khác là Blanchard và Charles Robert. Tuy nhiên những loại đạn tiếp theo của Houllier và Lefaucheux, thậm chí hoàn toàn là vỏ kim loại, đáy vỏ của chúng vẫn là kiểu có đầu nhô ra giống như những loại đạn dùng trong súng ngắn ổ quay LeMat và Lefaucheux, dù cho Lemat cũng đã phát triển một ổ quay sử dụng cơ chế đánh lửa ở vành đạn.

Loại đạn lắp hạt nổ ở giữa lần đầu được giới thiệu vào năm 1855 bởi Potter với hai loại hạt lửa Berdan và Boxer.

Năm 1842, Na Uy đã phát triển và trang bị cho binh sĩ của mình loại súng trường nạp hậu Kammerlader sử dụng bộ gõ đánh lửa, qua đó trở thành quốc gia đầu tiên có quân đội sử dụng rộng rãi súng trường nạp hậu làm vũ khí bộ binh chủ lực.

Dreyse Zundnadelgewehr (Súng Dreyse) là loại súng trường khương tuyến nạp đạn phát một sử dụng khóa nòng xoay để chốt khóa nòng. Sở dĩ có tên gọi như vậy vì súng sử dụng cây kim dài 0.5 inch và vỏ đạn giấy có hạt nổ bên trong làm cơ cấu khai hỏa; khi bắn, cây kim sẽ chọc xuyên qua phần thuốc bên trong vỏ giấy, đâm thẳng vào hạt nổ và kích nổ phần thuốc súng. Súng được phát triển bởi Johann Nicolaus von Dreyse từ thập niên 30 của thế kỷ XIX và được quân Phổ sản xuất từ cuối thập niên 40. Đạn vỏ giấy và súng tồn tại nhiều hạn chế; đặc biệt là vấn đề rò rỉ khí. Tuy nhiên súng đã chứng minh hiệu quả trong cuộc chiến tranh thống nhất Đức, cụ thể là chiến tranh với Áo (1866) và với Pháp (1870 - 1871), từ đó đã gây được sự chú ý trên toàn chấu Âu về súng trường nạp hậu và sức mạnh quân đội vương quốc Phổ.

Năm 1860, giới chức New Zealand đã kiến nghị lên Bộ Thuộc Địa đế quốc Anh điều thêm quân phòng thủ Auckland. Kiến nghị không được thông qua, do đó giới chức New Zealand chuyển sang yêu cầu Anh trang bị thêm vũ khí hiện đại. Năm 1861 họ đặt hàng loại súng carbine Calisher và Terry sử dụng đầu đạn chuẩn Minie cỡ nòng 54 được bọc bằng lớp mỡ động vật và giấy nitrat chống thấm. Loại carbine này đã được cấp số lượng nhỏ cho vài đơn vị khinh kỵ từ năm 1857. Khoảng từ ba đến bốn ngàn chiếc được chuyển đến New Zealand trong vài năm sau đó. Súng được sử dụng rộng rãi bởi lực lượng kiểm lâm do Gustavus von Tempsky chỉ huy chuyên về trinh sát và chiến đấu trong các bụi rậm. Von Tempsky ưu thích loại carbine ngắn, có thể nạp ở cả tư thế nằm. Vỏ đạn chống thấm dễ dàng hong khô trong những bụi rậm ở New Zealand. Nhiều bảo tàng ở nước này vẫn lưu giữ một số lượng nhỏ carbine trong điều kiện bảo quản tốt. nhỏ|Thiết kế khóa nòng De Bange Trong Nội chiến Hoa Kỳ, ít nhất 19 loại khóa nòng đã được sử dụng. Công ty Sharps đã thành công thiết kế khóa nòng khối chặn. Công ty Greene sử dụng bệ khóa nòng xoay. Spencer sử dụng khóa nòng thoi đẩy chuyển động theo nguyên lý đòn bẩy sử dụng cho hộp đạn 7 viên. Henry và Volcanic sử dụng đạn mồi kim loại được nạp từ băng đạn bên dưới nòng súng. Những thiết kế này mang lại ưu thế đáng kể so với phương pháp nạp tiền. Những cải tiến bộ phận khóa nòng đã đặt dấu chấm hết cho kiểu nạp tiền. Tuy vậy do việc phải tận dụng số lượng súng nạp tiền tồn dư, Springfield phiên bản nâng cấp 1866 đã được tiếp nhận sử dụng. Trước khi cuộc chiến nổ ra, Tướng quân Burnside đã thiết kế loại súng carbine mang tên ông.

Người Pháp đã sử dụng súng trường kiểu mới Chassepot 1866, đánh dấu bước phát triển của súng trường do sử dụng hệ thống khóa De Bange giúp giảm thiểu đáng kể tình trạng rò rỉ khí. Người Anh ban đầu đã sử dụng khẩu Enfield và lắp vào đó bộ khóa nòng Snider (khối rắn, bản lề song song với nòng súng) để bắn đạn Boxer. Sau buổi thử nghiệm kiểm tra giữa 104 khẩu súng vào năm 1866, người Anh quyết định sử dụng khẩu Martini-Henry do Peabody thiết kế có lắp cửa bẫy vào năm 1871. phải|nhỏ| Thiết kế bộ phận khóa nòng của Wahrendorff Các bộ phận khóa nòng bắn phát một tiếp tục được sử dụng trong suốt nửa sau của thế kỷ XIX, tuy nhiên chúng dần được thay thế bởi các thiết kế dành cho súng trường sử dụng băng đạn, bắt đầu từ Nội chiến Hoa Kỳ. Bộ khóa nòng bằng tay dần nhường chỗ cho băng đạn thủ công, sau đó là súng trường tự động.

Súng ngắn và súng săn hiện đại vẫn tiếp tục sử dụng cơ chế khóa nòng bắn phát một.

Pháo nạp hậu hiện đại

Khẩu pháo nạp hậu hiện đại đầu tiên được Martin von Wahrendoff phát minh vào năm 1837 với bộ khóa nòng hình trụ được cố định bằng một cái nêm ngang. Đến thập niên 50 và 60 của thế kỷ XIX, Whitworth và Armstrong đã cải tiến bộ khóa nòng bằng cách thiết kế một đầu vít ở khóa nòng và rãnh ở đuôi nòng giúp cho khóa nòng được đóng kín, đảm bảo quá trình bắn hiệu quả.

Loại pháo hải quân M1867 được sản xuất tại Đế quốc Nga tại Công xưởng Obukhov, sử dụng kỹ thuật của Krupp.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ| Khoang đạn của lựu pháo 122 mm M1910, được sửa đổi và kết hợp với cỡ nòng 105 mm H37 phải|nhỏ| Quá trình hiển thị chu kỳ thao tác bắn cho một khẩu pháo
**Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝和睿皇后, ; 20 tháng 11, năm 1776 - 23 tháng 1, năm 1850), còn được biết đến dưới tên gọi **Cung Từ Hoàng thái hậu** (恭慈皇太后), là Hoàng
**Hoa Dương Thái hậu** (Phồn thể: 華陽太后; giản thể: 华阳太后; ? - 230 TCN), thường được gọi là **Hoa Dương hậu** (華陽后) hoặc **Hoa Dương phu nhân** (華陽夫人), là Vương hậu của Tần Hiếu Văn
**Năng lượng sinh học kết hợp thu nạp và lưu trữ carbon** (BECCS – Bio-energy with carbon capture and storage) là quá trình khai thác năng lượng sinh học từ sinh khối và đồng thời
**Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu** (chữ Hán: 清高宗繼皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), Na Lạp thị, là Hoàng hậu thứ 2 của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
Hàng nghìn côntenơ tại bãi của cảng Elizabeth, [[New Jersey]] [[Tàu côngtenơ đang xếp hàng ở cầu cảng Copenhagen]] Xe lửa chở côngtenơ ở [[Anh]] **Côngtenơ hóa** là hệ thống vận chuyển hàng hóa đa
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Đáp Nạp Thất Lý** (; ; ? - 1335), nguyên phối và là chính thất Hoàng hậu đầu tiên của Nguyên Huệ Tông hay Nguyên Thuận Đế, vị Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyên
**Hiếu Trang Duệ Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊睿皇后; 2 tháng 8, 1426 - 15 tháng 7, 1468), còn gọi là **Từ Ý Hoàng thái hậu** (慈懿皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Anh Tông
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Thuyết tương đối văn hóa** là nguyên tắc mà những người khác cần hiểu về tín ngưỡng và hoạt động của mỗi cá nhân theo văn hóa của riêng cá nhân đó. Nó được thiết
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
thumb|Một ngôi làng Nạp Tây gần Lệ Giang **Người Nạp Tây** (Giản thể: 纳西族, Phồn thể: 納西族, Bính âm: Nàxī zú, Hán Việt: Nạp Tây tộc) hay **người Naxi** hoặc **người Nakhi** (theo tên tự
**Chiêu Từ Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 昭慈聖獻皇后, 1073 - 1131), thường gọi **Nguyên Hựu hoàng hậu** (元祐皇后), **Nguyên Hựu Mạnh hoàng hậu** (元祐孟皇后) hay **Long Hựu Thái hậu** (隆祐太后), là Hoàng hậu đầu
**Hiển Túc Trịnh Hoàng hậu** (chữ Hán: 顯肅鄭皇后; 1079 - 1130), còn gọi là **Ninh Đức Thái hậu** (寧德太后), là Hoàng hậu thứ hai của Tống Huy Tông Triệu Cát, đồng thời là Thái thượng
**Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝賢纯皇后, ; 28 tháng 3, năm 1712 - 8 tháng 4, năm 1748), là nguyên phối Hoàng hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Xuất thân vọng
right|thumb|Một khẩu shotgun [[Mossberg 500 12 gauge với tay cầm súng ngắn.]] right|thumb|Súng trường nạp đạn kiểu bơm [[Remington Model 760 .30-06 Springfield.]] **Nạp đạn kiểu bơm** là một trong những cơ chế nạp đạn
**Chiến tranh súng hỏa mai** là một chuỗi gồm 3.000 trận đột kích và các cuộc đụng độ trên khắp quần đảo New Zealand (bao gồm Quần đảo Chatham) giữa những người Māori từ năm
Hàu nếu bạn ăn đúng cách và liều lượng vừa đủ thì nó có lợi cho sức khỏe, ngược lại nếu bạn ăn hàu quá nhiều có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.Hàu là
Hàu nếu bạn ăn đúng cách và liều lượng vừa đủ thì nó có lợi cho sức khỏe, ngược lại nếu bạn ăn hàu quá nhiều có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.Hàu là
**Cộng hòa Ragusa**, hay **Cộng hòa Dubrovnik**, là một nước cộng hòa hàng hải đặt tại trung tâm thành phố Dubrovnik (_Ragusa_ trong tiếng Ý và Latinh) ở Dalmatia (ngày nay là vùng cực nam
thumb|right|Máy bay tiêm kích [[F-15E Strike Eagles của Không quân Mỹ]] thumb|Động cơ phản lực không khí của một chiếc máy bay chở khách đang cất cánh, có thể thấy rõ luồng khí phụt phía
thumb|right|Mô hình tàu của đội thám hiểm Trịnh Hòa, [[bảo tàng khoa học Hồng Kông.]] **Trịnh Hòa hạ Tây Dương** là bảy chuyến thám hiểm hàng hải của hạm đội kho báu cho nhà Minh
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
Súng hỏa mai đốt bằng dây cháy chậm- bảo tàng vũ khí- Hà Nội thumb|237x237px|Súng hỏa mai mồi thừng, súng hỏa mai đá lửa, súng kíp có hạt nổ và súng săn hai nòng ở
**Hậu Lương Thái Tổ** (), tên húy **Chu Toàn Trung** (朱全忠) (852–912), nguyên danh **Chu Ôn** (朱溫), sau khi tức vị cải thành **Chu Hoảng** (朱晃), là một nhân vật quân sự và chính trị
**Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝誠仁皇后, ; 26 tháng 11 năm 1653 – 16 tháng 6 năm 1674), còn được biết đến với thụy hiệu ban đầu là **Nhân Hiếu Hoàng hậu** (仁孝皇后),
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**Chương Hiến Minh Túc Lưu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章献明肃劉皇后, 968 - 1033), hay còn gọi là **Chương Hiến Lưu Hoàng hậu** (章獻劉皇后), **Chương Hiến Thái hậu** (章獻太后) hoặc **Chương Hiến hậu** (章獻后), thỉnh thoảng
thumb|Hệ thống thông khí hộp trục khuỷu tích cực (PCV) nối từ nắp xi lanh đến cổ góp hút động cơ thông qua ống nối (màu đen) Trong động cơ đốt trong, **hệ thống thông
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Mạnh Sưởng** () (919–12 tháng 7, 965), sơ danh **Mạnh Nhân Tán** (孟仁贊), tự **Bảo Nguyên** (保元), được Tống Thái Tổ truy thụy hiệu là **Sở Cung Hiếu Vương** (楚恭孝王), là hoàng đế thứ hai
**Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝惠章皇后, , 5 tháng 11 năm 1641 - 7 tháng 1 năm 1718), **Thanh Thế Tổ Kế hậu** (清世祖继后) hay còn gọi **Nhân Hiến Hoàng thái hậu** (仁憲皇太后),
thumb|right|Đồng bằng tây Siberian trên ảnh vệ tinh vùng [[Bắc Á.]] **Bể dầu khí Tây Siberia** là bể dầu khí có diện tích lớn nhất trên thế giới, trải rộng trên diện tích 2,2 triệu
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
Hàu tuy là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nhưng khi ăn nó bạn cần tránh những sai lầm như thường xuyên ăn hàu sống, ăn quá nhiều trong một lần ăn, không
Hàu tuy là thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nhưng khi ăn nó bạn cần tránh những sai lầm như thường xuyên ăn hàu sống, ăn quá nhiều trong một lần ăn, không
**Hậu Bách Tế** là một trong Hậu Tam Quốc tại Triều Tiên cùng với Hậu Cao Câu Ly và Tân La. Vương quốc chính thức được thành lập từ vị tướng Tân La bất bình
Hàu sống là một món ăn được nhiều quý ông yêu thích, khi ăn hàu sống đúng cách, đảm bảo chất lượng thì nó cũng mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe, tuy nhiên,
Hàu sống là một món ăn được nhiều quý ông yêu thích, khi ăn hàu sống đúng cách, đảm bảo chất lượng thì nó cũng mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe, tuy nhiên,
Hàu sống là một món ăn được nhiều quý ông yêu thích, khi ăn hàu sống đúng cách, đảm bảo chất lượng thì nó cũng mang đến nhiều lợi ích cho sức khỏe, tuy nhiên,
**Hiếu Thành Kính hoàng hậu** (chữ Hán: 孝成敬皇后; 20 tháng 3, 1471 - 28 tháng 8, 1541), còn được gọi là **Từ Thọ Hoàng thái hậu** (慈壽皇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Hiếu
Ăn hàu bao lâu có tác dụng là một thắc mắc được nhiều người quan tâm, bài viết này 1Shop.vn sẽ giúp bạn giải đáp vấn đề này.Hàu là một thực phẩm có giá trị
Ăn hàu bao lâu có tác dụng là một thắc mắc được nhiều người quan tâm, bài viết này 1Shop.vn sẽ giúp bạn giải đáp vấn đề này.Hàu là một thực phẩm có giá trị
Sữa Ong Chúa Costar Royal Jelly Soft Gel Capsules 1450mg được chiết xuất từ sữa ong chúa tự nhiên theo công nghệ cao nên giữ được tối đa lượng dưỡng chất, viên uống phát huy
Tranh tường [[Ai Cập cổ đại về việc cày cấy và bắt chim, khoảng 2700 năm trước Công nguyên, hiện lưu giữ ở bảo tàng Ai Cập, Cairo, Ai Cập.]] **Văn hóa** (chữ Hán: 文化,
phải|thumb|Lãnh thổ của [[người Hán từ lưu vực Hoàng Hà đã bành trướng sang các lãnh thổ lân cận.]] **_Chủ nghĩa đế quốc Trung Hoa_** (giản thể: **中华帝国主义**, phồn thể: **中華帝國主義**, **bính âm: Zhōnghuá dìguó
thumb|Một đèn compact dùng phóng điện khí kém thumb|Sơ đồ điện của đèn huỳnh quang chiếu sáng thumb|Nguồn ballast cho đèn compact **Ống phóng điện khí** hay **đèn phóng điện khí**, còn gọi là **ống
thumb|[[H.K. Porter, Inc. No. 3290 từ năm 1923.]] **Khí nén học** (tiếng Hy Lạp: _πνεύμα_) là một nhánh của kỹ thuật sử dụng gas hoặc khí áp. Các hệ thống khí nén được sử dụng
**Châu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp**, **Thập Song Bản Nạp**, **Thập Song Bàn Na** hay **Sipsong Panna** (; Tiếng Lự: ; Tiếng Thái: ,) là châu tự trị dân tộc Thái