Heinz Wilhelm Guderian (17 tháng 6 năm 1888 tại Tây Phổ – 14 tháng 5 năm 1954 tại Bayern) là Đại tướng Lục quân Đức thời Đệ tam Đế chế. Ông là một trong những người góp phần xây dựng và phát triển binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức cùng học thuyết Blitzkrieg, tức Chiến tranh Chớp nhoáng – theo đó các binh đoàn thiết giáp-cơ giới được tập trung để xuyên phá phòng tuyến rồi vây, diệt đối phương dưới sự yểm trợ tối đa của không quân. Vận dụng học thuyết ấy vào thực tiễn, Guderian lần lượt chỉ huy Quân đoàn Thiết giáp XIX (1939-1940) và Tập đoàn Thiết giáp số 2 (1941) trong Chiến tranh thế giới thứ hai, lập nên nhiều thắng lợi ngoạn mục trong các cuộc chinh phục Ba Lan (1939), Pháp (1940) và dồn ép Hồng quân Liên Xô về sát thủ đô Moskva trong chiến dịch xâm lược nước Nga (1941). Ông được thuộc cấp và binh lính đặt biệt hiệu là "Heinz Mau lẹ" (Schneller Heinz) vì khả năng tiến quân thần tốc của mình.
Sau khi quân Đức thua trận dưới chân thành Moskva (tháng 11 – 12 năm 1941), Guderian do làm trái lệnh Adolf Hitler nên bị miễn nhiệm và không được cất nhắc trong hơn 1 năm tới. Tháng 3 năm 1943, Hitler triệu hồi ông làm Tổng thanh tra Binh chủng Tăng-Thiết giáp để góp phần khôi phục, chấn chỉnh quân đội Đức sau hàng loạt thất bại trên chiến trường. Ông còn được kiêm nhiệm chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức từ tháng 7 năm 1944. Dù đã có nhiều nỗ lực nhưng Guderian vẫn không thể chuyển bại thành thắng cho quân đội mình. Ông cũng liên tục phản đối những quyết sách quân sự của Hitler và vì vậy, ông bị sa thải lần thứ hai (và cũng là lần cuối cùng) vào tháng 3 năm 1945. Sau khi chiến tranh kết thúc, Guderian bị quân Mỹ giam cầm từ năm 1945 đến năm 1948, rồi định cư tại Bayern (Tây Đức) cho tới khi mất. Hồi ký của ông - cuốn "Hồi ức của một quân nhân" (Erinnerungen eines Soldaten) đã đạt được tiếng vang tại Mỹ và nhiều nước châu Âu nửa sau thế kỷ 20.
Thân thế và sự nghiệp ban đầu
Heinz Guderian sinh ngày 17 tháng 6 năm 1888 trong một gia đình quý tộc địa chủ tại thị trấn Kulm (khi đó thuộc tỉnh Tây Phổ - Đế quốc Đức, ngày nay thuộc Ba Lan). Ông là con trai của viên sĩ quan bộ binh Friedrich Guderian và bà Clara Kirchoff. Từ thuở nhỏ, Heinz đã mong muốn theo đuổi nghiệp binh để nối chí cha mình. Trong các năm 1901 – 1907, ông học nhiều trường thiếu sinh quân tại Baden, Berlin và Metz. Tháng 2 năm 1907, ông gia nhập Tiểu đoàn Biệt kích số 10 Hannover (lúc bấy giờ do cha ông chỉ huy) với cấp bậc Chuẩn úy. Tháng 1 năm 1908, ông được lên cấp hàm Thiếu úy. Sau đó, ông được thuyên chuyển sang Tiểu đoàn Vô tuyến số 3 (Binh chủng Thông tin) đóng tại Koblenz vào năm 1912. Đến ngày 1 tháng 10 năm 1913, ông lập gia đình với bà Margarete Goerne - con gái của một sĩ quan quân y. Cuộc hôn nhân đã đem lại cho ông hai người con trai - đó là Heinz Günther (sinh ngày 23 tháng 8 năm 1914) và Kurt (sinh ngày 17 tháng 9 năm 1918).
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Năm 1914, khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Guderian được phân công làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội Truyền tin 3 thuộc Sư đoàn Kỵ binh 5 trên mặt trận Tây Âu. Cuối năm đó, ông đổi sang làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội Truyền tin 14 (Tập đoàn quân số 4) và tại chức tới năm 1917. Guderian được phong quân hàm Thượng úy ngày 8 tháng 11 năm 1914, sau đó được phong quân hàm Đại úy ngày 15 tháng 11 năm 1915. Tháng 4 năm 1917, ông đổi sang làm sĩ quan hậu cần trong Sư đoàn Bộ binh số 4 và vào tháng 8 cùng năm, ông nhận chức sĩ quan quân báo của Quân đoàn Dự bị X. Kế đến, ông tham gia một khóa đào tạo sĩ quan Bộ Tổng tham mưu tại Sedan từ ngày 10 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1918, rồi vào công tác tại Bộ Tổng tham mưu từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 23 tháng 5 năm 1918. Tiếp theo đó, ông lần lượt đảm nhiệm các chức Trưởng ban hậu cần Quân đoàn Dự bị XXXVIII và Trưởng ban tác chiến Bộ Tư lệnh Lực lượng chiếm đóng Ý trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến. Sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh (11 tháng 11 năm 1918), Guderian về nước tham gia lực lượng biên phòng trên biên giới phía đông của Đức trong các năm 1918-1919.
thumb|left|Guderian trên đường ra thị sát chiến trường Xô-Đức (1943).
Bất chấp sự can gián của Guderian cùng nhiều tướng khác, Hitler huy động các Cụm Tập đoàn quân Nam (Thống chế Erich von Manstein) và Trung tâm (Thống chế Günther von Kluge) mở Chiến dịch Thành Trì đánh Kursk ngày 5 tháng 7 năm 1943. Quân thiết giáp Đức ban đầu đạt được một số thắng lợi, nhưng không thể chọc thủng trận địa của quân Nga Xô Viết. Chiến dịch Thành Trì cuối cùng đã bị phá sản vào ngày 20 tháng 7 năm 1943. Cùng với trận Stalingrad, thất bại của Chiến dịch Thành Trì đã buộc quân Đức phải chuyển hoàn toàn sang thế bị động chiến lược trong 2 năm cuối chiến tranh Xô-Đức.
Cuối đời
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, Guderian bị giam cầm trong các trại tù binh của Anh-Mỹ từ năm 1945 đến năm 1948. Ông mãn hạn tù vào ngày 17 tháng 6 năm 1948 (cũng chính là sinh nhật lần thứ 60 của ông). Sau đó ông trở về an cư ở Bayern và vào thập niên 1950, ông viết một số cuốn sách tư vấn cho chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức về chính sách quốc phòng thời đại mới. Năm 1950, ông cho ra mắt lần đầu tiên tại Đức cuốn hồi ký mang nhan đề "Hồi ức của một quân nhân" (Erinnerungen eines Soldaten). Cuốn sách đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và phổ biến tới nhiều nước trên thế giới, trong đó có Anh, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Phần Lan, Ý, Nam Tư, Ba Lan, Liên Xô, Trung Quốc, Argentina và Brasil. Do bị suy tim xung huyết, Guderian qua đời vào ngày 14 tháng 5 năm 1954 tại Schwangau (Bayern). Ông được mai táng tại Goslar (Hannover), nơi ông đã từng đóng quân cùng Tiểu đoàn Biệt kích 10 trong những năm đầu binh nghiệp của mình.
Con trưởng của Guderian là Heinz Günther Guderian (1914 – 2004) đã tham gia Binh chủng Tăng-Thiết giáp - Lục quân Cộng hòa Liên bang Đức và cũng từng làm tổng thanh tra binh chủng này. Ông Heinz Günther về hưu năm 1974 với quân hàm Thiếu tướng.
👁️
3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Heinz Wilhelm Guderian** (17 tháng 6 năm 1888 tại Tây Phổ – 14 tháng 5 năm 1954 tại Bayern) là Đại tướng Lục quân Đức thời Đệ tam Đế chế. Ông là một trong những
**Trận rừng Tucholskich** là một trong các trận đánh mở màn của Chiến dịch Ba Lan trong Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo dài từ ngày 1 cho đến ngày 5 tháng 9 năm
**Heinrich Kurt Alfons Willy Eberbach** (24 tháng 11 năm 1895 – 13 tháng 7 năm 1992) là Thượng tướng Thiết giáp quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một cộng
**Otto Moritz Walter Model** (24 tháng 1 năm 1891 - 21 tháng 4 năm 1945) là một thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Model nổi tiếng
**Heinrich Luitpold Himmler** hay có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Hen-rích Him-le** (; 7 tháng 10 năm 1900 – 23 tháng 5 năm 1945) là _Reichsführer_ (Thống chế SS) của _Schutzstaffel_ (Đội cận
**Hermann Hoth** (1885-1971) là một Đại tướng Lục quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông là một trong những chỉ huy hàng đầu của binh chủng Tăng-Thiết giáp Đức, đã dẫn dắt
**Trận Moskva** là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến
**Cuộc diễu binh Đức - Xô tại Brest-Litovsk** (, __) là một buổi lễ chính thức được tổ chức bởi quân đội Đức Quốc xã và Liên Xô vào ngày 22 tháng 9 năm 1939,
**Trận Smolensk** là một trận đánh lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc khuôn khổ chiến dịch Barbarossa năm 1941. Đây là một tổ hợp các trận đánh phòng thủ kết hợp với các hoạt động
**Trận Białystok – Minsk** là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong
**Trận Montcornet** diễn ra vào ngày 17 tháng 5 năm 1940, khi Chuẩn tướng Charles de Gaulle dẫn Sư đoàn Thiết giáp số 4 (Pháp) từ Laon phản công vào các đơn vị thuộc Quân
**Pavel Alekseyevich Belov** (; 18 tháng 2 năm 1897 - 3 tháng 12 năm 1963) là một Thượng tướng Quân đội Liên Xô và Anh hùng Liên Xô. Ông được xem là một trong những
**Trận Brześć Litewski** (còn gọi là **Cuộc bao vây Brześć**, **Trận Brest-Litovsk** hay đơn giản là **Trận Brześć**) là một trận đánh trong Thế chiến thứ hai giữa quân Đức Quốc Xã và Ba Lan
**Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945** là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941
**Trận La Horgne** diễn ra vào ngày 15 tháng 5 năm 1940 trên miền Ardennes (Pháp), sau khi Quân đoàn Thiết giáp XIX (Đức) dưới sự thống lĩnh của Thượng tướng Thiết giáp Heinz Guderian
**Fedor von Bock** (3 tháng 12 năm 1880 – 4 tháng 5 năm 1945) là một Thống chế quân đội Đức thời Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông đã đóng một vai trò quan
**Karl von Rundstedt** hay **Gerd von Rundstedt** (12 tháng 12 năm 1875 – 24 tháng 2 năm 1953) là một Thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong thời Thế chiến thứ hai. Ông
**Xe tăng Iosif Stalin** (hay **Xe tăng IS**), là một loại xe tăng hạng nặng được Liên bang Xô viết phát triển trong Thế chiến II. Những chiếc xe tăng thuộc loại này thỉnh thoảng
**_Panzerkampfwagen_ IV** (Pz.Kpfw. IV), thường được gọi là **Panzer IV,** là xe tăng hạng trung của Đức Quốc xã được thiết kế vào cuối những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong Chiến
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
nhỏ|Gotthard Heinrici **Gotthardt Heinrici** (25 tháng 12 năm 1886 – 13 tháng 12 năm 1971) là một vị tướng bộ binh và thiết giáp của Đệ tam Đế chế Đức, đã được thăng đến cấp
**Semyon Moiseyevich Krivoshein** (tiếng Nga: _Семён Моисеевич Кривошеин_; 1899 - 1978) là một chỉ huy của lực lượng xe tăng Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người đã đóng vai trò quan
**Liên Xô xâm lược Ba Lan năm 1939**, còn được gọi là **Chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina** bởi Liên Xô, là một cuộc xung đột quân sự không có lời tuyên
Quân kỳ của Quân đội Đức quốc xã**Lịch sử quân sự Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai** bắt đầu từ quân số 100.000 do Hòa ước Versailles hạn chế, không được quyền có
Xe tăng **Panzerkampfwagen I**, hay **Sonderkraftfahrzeug (SdKfz) 101**, được viết tắt là **PzKpfw I** nhưng được biết nhiều nhất dưới cái tên **Panzer I** là loại xe tăng hạng nhẹ được sản xuất bởi Đức
**Chiến dịch Budapest** (Tiếng Nga:_Будапештская операция_) là trận đánh lớn nhất giữa quân đội Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã và quân đội Hungary tại _Mặt trận Hungary_ thuộc Chiến tranh Xô-Đức trong
**Chiến dịch Kharkov (1941)**, theo cách gọi của Wilhelm Keitel là **Trận Kharkov lần thứ nhất**, còn theo lịch sử của Nga là **Chiến dịch phòng thủ Sumy-Kharkov**, diễn ra từ ngày 1 tháng 10
**Yakov Grigoryevich Kreyzer** (; 4 tháng 11 năm 1905, Voronezh - 29 tháng 11 năm 1969, Moskva) là một tướng lĩnh chỉ huy cấp tập đoàn quân của Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc
**Giải phóng** (tiếng Nga: _Освобождение_) là một bộ phim lịch sử của Yury Ozerov về chiến tranh Vệ quốc 1941-1945, với bối cảnh chính diễn ra trong khoảng thời gian từ mùa hè năm 1943
**Erich von Manstein** tên đầy đủ là **Fritz Erich Georg Eduard von Lewinski** (24 tháng 11 năm 1887 – 10 tháng 7 năm 1973) là một chỉ huy cấp cao của quân đội Đức thời
**Tiger I** là một loại xe tăng hạng nặng của Đức được sử dụng trong Thế chiến II, được sản xuất từ cuối năm 1942 như một loại tăng đương đầu với sức kháng cự
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Xe tăng Panther** (_Con Báo_) là tên một loại xe tăng hạng trung phục vụ cho quân đội Đức Quốc xã từ giữa năm 1943 đến cuối năm 1945. Nó được thiết kế ra nhằm
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Phương diện quân Bryansk** (tiếng Nga: _Брянский фронт_) là một tổ chức tác chiến chiến lược của Hồng quân Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Lịch sử ### Thành lập lần thứ nhất
**Trận Stonne** là một trận đánh trong Chiến dịch nước Pháp của quân đội Đức Quốc xã năm 1940 thời Chiến tranh thế giới thứ hai, đã diễn ra từ ngày 15 cho đến ngày
**Trận Dinant** là một trong các trận đánh mở màn của Chiến dịch nước Pháp thời Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 5 năm 1940 tại
thumb|Walther Hewel năm 1940 **Walther Hewel** (2 tháng 1 năm 1904 - 2 tháng 5 năm 1945) là một nhà ngoại giao người Đức trước và trong Thế chiến thứ II, một thành viên đầu
**Aleksey Semyonovich Zhadov** (; 1901-1977), họ khai sinh là **Zhidov** () là một tướng lĩnh Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, Anh hùng Liên Xô. Ông từng chỉ huy Tập
Ngày **17 tháng 6** là ngày thứ 168 (169 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 197 ngày trong năm. ## Sự kiện * 629 – Borandukht trở thành nữ hoàng đầu tiên của Đế
Ngày **14 tháng 5** là ngày thứ 134 (135 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 231 ngày trong năm. ## Sự kiện * 1483 - Charles VIII đăng quang vua Pháp. *1643 - Quốc
**Siegmund Wilhelm List** (14 tháng 5 năm 1880 – 17 tháng 8 năm 1971) là một trong số các thống chế của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Ông
**William Tecumseh Sherman** (8 tháng 2 năm 1820 – 14 tháng 2 năm 1891), là một tướng của quân đội Liên bang miền Bắc thời Nội chiến Hoa Kỳ. Tuy nổi tiếng tài giỏi về
**Günther "Hans" von Kluge** (30 tháng 10 năm 1882 – 19 tháng 8 năm 1944) là một Thống chế Quân đội Đức Quốc xã. Ông sinh tại Posen trong một gia đình quân đội người
**Ivan Danilovich Chernyakhovsky** hay **Cherniakhovsky** (tiếng Nga: _Ива́н Дани́лович Черняхо́вский_) (sinh ngày 29 tháng 6, lịch cũ ngày 16 tháng 6 năm 1906, hy sinh ngày 18 tháng 2 năm 1945) là một chỉ huy
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
:_Xem nghĩa khác của từ Bộ binh_ :_Đừng nhầm lẫn với Bộ binh cơ giới_nhỏ|Bộ binh cơ giới hóa của [[Quân đội Hoa Kỳ xuống từ xe bọc thép chở quân M113 trong cuộc huấn
**Panzer-III** là tên một loại xe tăng hạng trung do Đức phát triển vào những năm 1930 và sử dụng trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tên kĩ thuật đầy đủ của
nhỏ|Tướng Charles de Gaulle **Charles de Gaulle** hay **Charles André Joseph Marie de Gaulle** (); phiên âm tiếng Việt: **Sác đờ Gôn** hay **Sác-lơ đờ Gôn** (22 tháng 11 năm 1890 - 9 tháng 11
Hiệu kỳ của Thống chế Chỉ huy trưởng Bộ Tổng tư lệnh Quân lực của Đức Quốc xã (1941–1945) **Bộ Tổng tư lệnh Quân lực** (tiếng Đức: _Oberkommando der Wehrmacht_, , viết tắt **OKW**, ),