✨Charles de Gaulle

Charles de Gaulle

nhỏ|Tướng Charles de Gaulle Charles de Gaulle hay Charles André Joseph Marie de Gaulle (); phiên âm tiếng Việt: Sác đờ Gôn hay Sác-lơ đờ Gôn (22 tháng 11 năm 1890 - 9 tháng 11 năm 1970) là chính khách nổi tiếng của Pháp. Ông xuất thân là một quân nhân trong Quân đội Pháp. Năm 1940, khi chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, ông đã vượt biên sang London, lãnh đạo tổ chức "Pháp quốc Tự do", thành lập chính phủ Pháp lưu vong, ra lời kêu gọi người Pháp tiếp tục kháng chiến chống sự chiếm đóng của Quân đội phát xít Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Tiểu sử

Gia đình và thời niên thiếu

Sinh ra ở Lille ngày 22 tháng 11 năm 1890 trong một gia đình Công giáo, lớn lên ở Paris, Charles de Gaulle là con trai của ông Henri de Gaulle, giáo sư văn học và lịch sử, và bà Jeanne Maillot. De Gaulle có ba người em trai và một cô em gái, hai người trong số họ sau này đã tham gia kháng chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai:

  • Xavier de Gaulle (1887-1955), tham gia kháng chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai; bố của Geneviève De Gaulle-Anthonioz.
  • Jacques de Gaulle (1893-1946), bị tàn tật từ năm 1926 sau khi mắc phải bệnh viêm não.
  • Pierre de Gaulle (1897-1959), tham gia kháng chiến, sau trở thành chính trị gia và nhà doanh nghiệp.
  • [http://www.charles-de-gaulle.org/article.php3?id_article=644? Marie-Agnès de Gaulle (1889-1982).] Từ rất sớm, bố của Charles đã cho ông tiếp cận với các tác phẩm của Barrès, Bergson và Péguy. Charles de Gaulle học một phần của chương trình tiểu học tại trường dòng của chủng viện Saint-Thomas-d'Aquin (ngày nay là Trường cấp ba Saint-Thomas-d'Aquin) ở Paris, phần còn lại ở Bỉ sau cuộc khủng hoảng chính trị ở Pháp năm 1905 về quyết định tách biệt Nhà thờ và Quốc gia.

Đỗ thứ 119 trên 221 trong kỳ thi tuyển vào Trường Quân sự Saint-Cyr năm 1908 sau khi học lớp dự bị tại ngôi trường danh tiếng Học viện Thiên chúa giáo tư thục Stanislas ở Paris, ông ra trường năm 1912 (khóa Fès, mà thủ khoa là thống chế Juin trong tương lai) và gia nhập bộ binh. Được điều về Trung đoàn bộ binh 33 đóng ở Arras, sĩ quan trẻ de Gaulle được đặt dưới sự chỉ huy của Đại tá Pétain.

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Mang hàm Trung úy ở đầu cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, ông được thăng lên hàm Đại úy vào tháng 1 năm 1915. Bị thương ở ngay trận đánh đầu tiên tại Dinant ngày 23 tháng 8 năm 1914, ông được thuyên chuyển đến Trung đoàn bộ binh 33 ở mặt trận Champagne để chỉ huy đại đội 7. De Gaulle lại một lần nữa bị thương ngày mùng 10 tháng 3 năm 1915 ở bàn tay trái, trong trận Somme. Sự thông minh cũng như lòng dũng cảm của ông trên mặt trận khiến chỉ huy Trung đoàn bộ binh 33 cho ông làm trợ lý của mình.

Ngày 2 tháng 3 năm 1916, Trung đoàn của ông bị tập kích và gần như bị nghiền nát hoàn toàn khi đang bảo vệ khu vực làng Douaumont, gần Verdun. Đại đội của ông bị nghiền nát và bao vây trong trận đánh. Theo thông tin chính thức, ông đã tổ chức một cuộc chọc phá vòng vây; trong trận đột kích, lưới đạn quân Đức quá dày khiến ông phải nhảy vào một hố đạn pháo để tránh, nhưng lính Đức nhảy vào theo và đâm ông bị thương ở đùi bên trái. Bị bắt làm tù binh, ông được đem đi băng bó và chăm sóc. Nhưng một người lính của trung đoàn ông đã cung cấp một câu chuyện hoàn toàn khác: «Chúng tôi bị bao vây và dưới lệnh của Đại úy chỉ huy de Gaulle, chúng tôi buộc phải buông súng đầu hàng.»

Sau một lần vượt ngục không thành, ông bị chuyển đến pháo đài Ingolstadt, ở Bavaria, một trại tù binh dành cho các sĩ quan cứng đầu. Tại đây ông gặp Georges Catroux, người sau này được phong Đại tướng (Général d'Armée), nhà báo Rémy Roure, nhà xuất bản Berger-Levrault và Nguyên soái Liên Xô tương lai Tukhachevsky. Vượt ngục năm lần nhưng đều thất bại. Ông được trao trả tự do sau khi chiến tranh kết thúc và về nhà vào tháng 12 năm 1918. Ông được nhận, vì những cống hiến trong cuộc Đại chiến thế giới thứ nhất Chữ thập kỵ sĩ Bắc đẩu bội tinh, vào ngày 23 tháng 7 năm 1919.

Về thời kỳ bị tù đày này, tướng Perré đã phát biểu năm 1966: "Một trong những người bạn tôi bị giam cùng de Gaulle đã kể với tôi điều này. Quân Đức tôn trọng những sĩ quan Pháp đã dũng cảm chiến đấu bằng cách trả lại kiếm cho họ ở những dịp lễ quan trọng, chẳng hạn như khi đi lễ ở nhà thờ. Nhưng họ đã không trả cho Đại úy de Gaulle. Tưởng rằng bị quên do nhầm lẫn, de Gaulle đã phản đối một cách kịch liệt. Lính Đức ngạc nhiên, nhưng cũng đi điều tra lại về trường hợp đầu hàng của de Gaulle. Một khi đã có thông tin đầy đủ, quân Đức vẫn không trả lại kiếm cho Đại úy de Gaulle".

Giữa hai cuộc Thế chiến

Charles de Gaulle tiếp tục con đường binh nghiệp. Từ năm 1919 cho đến năm 1921, ông được gửi sang Ba Lan, quốc gia vừa mới giành quyền độc lập; nơi ông tham gia giúp đỡ thành lập và huấn luyện quân đội nước này trong cuộc chiến tranh thắng lợi trước Hồng quân Xô viết.

Khi trở về Pháp, Đại úy de Gaulle được phân giảng dạy tại l'École de Saint-Cyr (Học viện Saint-Cyr), trước khi được cử đi học tại École supérieure de guerre (Học viện Chiến tranh cao cấp) vào năm 1922.

nhỏ|Churchill và De Gaulle 1944

Chiến tranh thế giới thứ hai

De Gaulle đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của cuộc chiến tranh Ba Lan - Xô Viết, nên ông chủ trương dùng nhiều xe tăng, dùng cách vận chuyển nhanh chóng và giới hạn cách dùng chiến luỹ. Ông cũng học hỏi được nhiều bài học từ vị Thống Chế Jozef Pilsudski của nước Ba Lan, đây là nhân vật mà trước đó vài thập niên, đã từng chủ trương tạo dựng một liên bang châu Âu. Căn cứ vào các nhận xét từ cuộc chiến tranh tại Ba Lan, ông de Gaulle đã viết nhiều bài báo và cho xuất bản nhiều cuốn sách, đặc biệt là cuốn "Về Đạo Quân Chuyên nghiệp" (Vers l' Armée de Metiers = Towards the Professional Army, 1934). Trong tác phẩm này, ông de Gaulle đã đề nghị một loại quân đội cơ giới chuyên nghiệp với các sư đoàn thiết giáp đặc biệt, hơn là dùng cách phòng thủ tại chỗ, điển hình là Chiến Lũy Marginot.

Các quan điểm chiến thuật tương tự đã được nhiều nhà quân sự tài giỏi đề cập tới: J.F.C. Fuller của nước Anh, Dwight D. Eisenhower và George S. Patton của nước Mỹ, Heinz Guderian của nước Đức, Mikhail Tukhachevsky của nước Nga và Wladyslaw Sikorski của nước Ba Lan, nhưng các lý thuyết quân sự tân tiến của ông de Gaulle đã bị các sĩ quan cao cấp người Pháp bác bỏ, kể cả vị thầy cũ là Tướng Philippe Pétain, và rồi các liên lạc giữa ông de Gaulle với các cấp trên trở nên xấu đi, ngoại trừ với ông Paul Reynaud.

Như vậy trong 2 thập niên 1920 và 1930, do các quan điểm táo bạo, Thiếu tá de Gaulle đã bất hòa với các nhà lãnh đạo quân sự Pháp, vì vậy cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, ông de Gaulle chỉ là một vị Trung tá. Ngày 15/5/1940, Trung tá de Gaulle được giao trách nhiệm chỉ huy Sư đoàn 4 Thiết Giáp (the 4th Armoured Division).

Ngày 17/ 5/1940, đạo quân của Trung tá de Gaulle đã tấn công các lực lượng chiến xa Đức tại Montcornet. Với 200 chiến xa và không có máy bay khu trục yểm trợ, cuộc tấn công này đã không cản được bước tiến của quân xâm lăng Đức, nhưng đến ngày 28/5, các lực lượng thiết giáp của Trung tá de Gaulle đã khiến cho bộ binh Đức phải rút lui tại Caumont. Đây chỉ là một trong số rất ít các chiến thắng của quân đội Pháp trong suốt cuộc chiến. Nhờ chiến thắng kể trên, ông de Gaulle được Thủ tướng Pháp Paul Reynaud thăng chức Thiếu tướng và từ nay, ông được mọi người gọi là "Tướng de Gaulle". Ngày 6/6/1940, Thủ tướng Paul Reynaud bổ nhiệm Tướng de Gaulle làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Chiến tranh, rồi cử ông lo việc phối hợp với nước Anh. Vì chỉ là một nhân viên cấp thấp trong Chính phủ Pháp, Tướng de Gaulle đã không thành công khi phản đối việc nước Pháp đầu hàng Quân đội Đức Quốc xã. Ông đã không thuyết phục được chính phủ này di tản qua Bắc Phi để tiếp tục chiến đấu từ các thuộc địa của nước Pháp.

Tại nước Anh, Tướng de Gaulle là sĩ quan liên lạc với chính quyền Anh và ông đã đề nghị với Thủ tướng Churchill vào ngày 16/6 tại London, công cuộc kết hợp chính trị giữa nước Pháp và nước Anh. Khi chính phủ Pháp tạm thời dời về thành phố Bordeaux, Tướng de Gaulle đã dùng máy bay quay về nơi này và được biết tin rằng Tướng Pétain đã trở nên Thủ tướng cùng với ý định tìm kiếm cách đình chiến với quân đội Đức Quốc xã.

Vào ngày 16/6 này, Tướng de Gaulle đã thực hiện một quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của ông và trong lịch sử mới của nước Pháp: ông từ chối chấp nhận nước Pháp đầu hàng và ông nổi loạn, chống lại chính quyền Pétain, khi đó được coi là hợp pháp. Tướng de Gaulle đã kêu gọi mọi người dân Pháp tiếp tục chiến tranh chống lại nước Đức của Adolf Hitler.

Vào sáng ngày 17/6/1940, với 100,000 Franc Pháp do Paul Reynaud giao cho đêm hôm trước, Tướng de Gaulle lên máy bay, trốn khỏi thành phố Bordeaux, tránh được sự truy lùng của máy bay Đức và chiều hôm đó, ông đã hạ cánh xuống thành phố London. Từ nay, Tướng de Gaulle bác bỏ việc nước Pháp đầu hàng và ông bắt đầu xây dựng một phong trào kêu gọi mọi thành phần Pháp hải ngoại đoàn kết để chống lại quân Đức Quốc xã. Như vậy từ nay bắt đầu cuộc nội chiến Pháp giữa chính phủ Vichy đứng về phe Trục và nước Pháp Tự Do (the Free France) đứng đầu do Tướng de Gaulle, với lập trường bác bỏ cuộc đình chiến và tham gia vào các lực lượng Đồng minh để chống quân Đức.

Lãnh đạo các Lực lượng Pháp Tự Do 1940-1945

Ngày 25 tháng 8 năm 1944, ông đã đọc một bài diễn văn nổi tiếng, nhấn mạnh vai trò của người dân Pháp trong công cuộc giải phóng. «... Paris, Paris outragé, Paris brisé, Paris martyrisé, mais Paris libéré. Libéré par lui-même, libéré par son peuple, avec le concours des armées de la France, avec l'appui et le concours de la France tout entière, c'est-à-dire de la France qui se bat, c'est-à-dire de la seule France, de la vraie France, de la France éternelle....» ("... Paris, Paris bị lăng nhục, Paris tan nát, Paris bị đọa đày, nhưng Paris được giải phóng. Tự giải phóng, được nhân dân giải phóng, với sự hợp tác của quân đội Pháp, với sự hỗ trợ và sự hợp tác của toàn thể nước Pháp, nghĩa là của nước Pháp đấu tranh, nghĩa là của một mình nước Pháp, của nước Pháp thực thụ, của  nước Pháp vĩnh cửu...")

Sau khi trở lại Paris, Tướng de Gaulle di chuyển văn phòng về Bộ Chiến tranh và công bố tiếp tục nền Cộng hòa thứ ba (the Third Republic), đồng thời bác bỏ tính cách hợp lệ của chính phủ Vichy.

Kể từ tháng 9/1944, Tướng de Gaulle được coi là Tổng thống (President) của Chính phủ Lâm thời của nước Cộng Hòa Pháp (the Provisional Government of the French Republic).

Vào năm 1945, Tướng de Gaulle đã phái Đạo Quân Viễn Chinh Pháp (the French Far East Expeditionary Corps) sang Đông Dương để thiết lập lại chủ quyền của nước Pháp, bổ nhiệm Đô Đốc d' Argenlieu làm Cao ủy Đông Dương thuộc Pháp (High Commissioner of French Indochina) và chỉ định Tướng Leclerc làm Tổng Tư lệnh của các lực lượng viễn chinh và tại Đông Dương.

Dưới sự lãnh đạo của Tướng de Gaulle, quân kháng chiến Pháp cùng với các đạo quân thuộc địa, đã giải phóng gần như 1/3 diện tích của nước Pháp. Đạo quân này, được gọi là Lộ Quân Pháp Thứ Nhất (the French First Army) cũng chiếm được một diện tích lớn của lãnh thổ Đức khi các lực lượng Đồng Minh tràn vào nước Đức. Sự kiện này đã khiến cho nước Pháp trở nên một thành phần tích cực khi các đại diện Đức Quốc xã ký nhận đầu hàng.

Ngày 20/11/1946, Tướng de Gaulle từ chức vì các xung khắc giữa các đảng phái chính trị và ông cũng không đồng ý về bản dự thảo Hiến pháp của nền Cộng Hòa Thứ Tư, bởi vì ông tin tưởng rằng bản dự thảo này đặt quá nhiều quyền lực vào trong tầm tay của một quốc hội với cách thay đổi tỉ lệ đảng phái. Các nhân vật thay thế Tướng de Gaulle là các ông Felix Gouin, Georges Bidault và Léon Blum.

Sau thế chiến thứ hai

Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, ông trở lại Pháp. Năm 1958, ông thành lập nền Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp và giữ chức Tổng thống từ năm 1959 đến năm 1969. Ông mất ngày 9 tháng 11 năm 1970 tại Colombey-les-Deux-Eglises, Pháp

1958–1969: Trở lại quyền lực

upright|thumb|right|Cuộc gặp đầu tiên giữa [[David Ben-Gurion và de Gaulle tại Cung điện Élysée, 1960]] Trong Bầu cử tháng 11 năm 1958, Charles de Gaulle và những người ủng hộ ông (ban đầu là Union pour la Nouvelle République-Union Démocratique du Travail, sau đó là Union des Démocrates pour la Vème République , sau này vẫn là Union des Démocrates pour la République, UDR) đã giành được đa số thoải mái. Vào ngày 21 tháng 12, ông là được bầu Tổng thống Pháp; ông được nhậm chức vào tháng 1 năm 1959. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, ông trở thành ex officio Đồng hoàng tử Andorra.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Tướng Charles de Gaulle **Charles de Gaulle** hay **Charles André Joseph Marie de Gaulle** (); phiên âm tiếng Việt: **Sác đờ Gôn** hay **Sác-lơ đờ Gôn** (22 tháng 11 năm 1890 - 9 tháng 11
**Quảng trường Charles-de-Gaulle** nằm ở phía tây Bắc thành phố Paris, điểm giao của các quận 8, 16 và 17. Là giao lộ của 12 đại lộ, trong đó có Champs-Élysées, ở giữa quảng trường
**Cầu Charles-de-Gaulle** (tiếng Pháp: _Pont Charles-de-Gaulle_) là một cây cầu bắc qua sông Seine thuộc địa phận Paris, Pháp. Cây cầu này nối liền phố Van-Gogh (thuộc quận 12) với kè Austerlitz (thuộc quận 13).
**Sân bay Paris-Charles-de-Gaulle** (, ), còn gọi là **Sân bay Roissy** (hoặc đơn giản là _Roissy_ trong tiếng Pháp), là sân bay quốc tế lớn nhất nước Pháp, đồng thời là một trong những trung
**Sân vận động Charles de Gaulle** () là một sân vận động đa năng ở Porto-Novo, Bénin. Sân được đặt theo tên của Charles de Gaulle. Sân hiện được sử dụng chủ yếu cho các
**Đệ Tứ Cộng hòa Pháp** (tiếng Pháp: _la Quatrième République_) là chính phủ cộng hòa tại Pháp từ năm 1946 tới năm 1958, được quy định bởi hiến pháp nền cộng hòa thứ tư. Đệ
**Jean Joseph Marie Gabriel de Lattre de Tassigny** (, 2 tháng 2 năm 1889 – 11 tháng 1 năm 1952) là đại tướng Pháp trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Philippe Leclerc de Hauteclocque** (hay được phiên âm: **Phi-líp Lơ-clec**; (22 tháng 11 năm 1902 – 28 tháng 11 năm 1947) là một tướng lĩnh Pháp trong Thế chiến thứ hai, từng là tổng Tư
thumb|[[Cecil Rhodes và dự án đường sắt Cape-Cairo. Rhodes thích "tô bản đồ nước Anh màu đỏ" và tuyên bố: "tất cả những ngôi sao này... những thế giới bao la vẫn còn ngoài tầm
**Sân bay quốc tế Rio de Janeiro/Galeão - Antônio Carlos Jobim** tên phổ biến hơn **Sân bay quốc tế Galeão**, là sân bay quốc tế chính tại thành phố Rio de Janeiro. Một phần trong
**Đệ Tam Cộng hòa Pháp** (tiếng Pháp: _la Troisième République_, đôi khi còn được viết là _la IIIe République_) là Chính thể cộng hòa của Pháp tồn tại từ cuối Đệ Nhị Đế
**Đế chế thứ hai** hay **Đệ Nhị đế chế** là vương triều Bonaparte được cai trị bởi Napoléon III từ 1852 đến 1870 tại Pháp. Đế quốc này được bắt đầu sau Đệ Nhị Cộng
Musée de l'Air et de l'Espace **Musée de l'Air et de l'Espace** là bảo tàng hàng không lớn nhất của Pháp, nằm gần sân bay Le Bourget, cách Paris khoảng 10 km về hướng Bắc. Được
thumb|upright=1.5|Thời gian di chuyển bằng xe lửa từ Paris (2007). Tất cả các phương thức vận tải đều được hiện diện trong Île-de-France, ngoại trừ vận tải hàng hải (tuy nhiên vẫn tồn tại một
**Sân bay Santiago de Compostela - Lavacolla** là sân bay quốc tế quan trọng nhất Galicia. Sân bay này nằm ở ngoại ô thủ phủ Galicia, thành phố Santiago de Compostela. Sân bay này có
**Đệ Ngũ Cộng hòa** là chế độ cộng hòa của Pháp ngày nay. Đệ Ngũ Cộng hòa được thành lập sau khi Đệ Tứ Cộng hòa sụp đổ vào năm 1958. Đệ Ngũ Cộng hòa
**Sân bay quốc tế Dr. Francisco de Sá Carneiro** cũng gọi là **Sân bay Porto** hay **Sân bay Pedras Rubras** là sân bay quốc tế ở Porto, Bồ Đào Nha. Sân bay này nằm cách
**Bernard de Lattre de Tassigny** (11 tháng 2 năm 1928 – 30 tháng 5 năm 1951) là một sĩ quan quân đội Pháp trong Thế chiến thứ hai và Chiến tranh Đông Dương. Ông là
**Hôtel de Conti**, hay còn gọi là _Palais Conti_ là hai toà nhà thuộc quyền sở hữu của Thân vương xứ Conti, hoàng thân quốc thích của Nhà vua Pháp và các hoàng tử chính
**Sân bay Quatro de Fevereiro** là một sân bay ở Luanda, thủ đô của Angola. Năm 2004, sân bay này phục vụ 742.629 lượt khách. ## Sự cố và tai nạn nhỏ|Nhà ga chính năm
**École spéciale militaire de Saint-Cyr** thường được gọi đơn giản là **Saint-Cyr**, là một học viện lục quân danh giá của Pháp. Trường được thành lập vào ngày 1 tháng 5 năm 1802 bởi Napoléon.
**Jacques René Chirac** (29 tháng 11 năm 1932 – 26 tháng 9 năm 2019) là một nhà chính trị người Pháp. Ông đã được bầu làm Tổng thống Pháp vào năm 1995 và 2002. Với
**Air France** (; formally _Société Air France, S.A._), cách điệu thành **AIRFRANCE**, là hãng hàng không quốc gia của Pháp, đặt trụ sở tại Tremblay-en-France, phía bắc thủ đô Paris. Air France là một công
**Paris** () là thủ đô và là thành phố đông dân nhất nước Pháp, cũng là một trong ba thành phố phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới cùng Luân Đôn với New York
**Sân bay Paris-Orly** (, ) là một sân bay tọa lạc tại Orly và một phần tại Villeneuve-le-Roi, Nam của Paris, Pháp. Sân bay này phục vụ các chuyến bay đến các thành phố của
**Trận Charleroi**, còn gọi là **trận sông Sambre**, diễn ra từ ngày 21 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1914, trong chuỗi trận Biên giới Bắc Pháp giữa quân đội Đức với liên minh
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Paul Henri Romuald Ély** (17 tháng 12 năm 1897 - 16 tháng 1 năm 1975) là một Đại tướng Pháp, nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quốc phòng. ## Thiếu thời Ông là con trai của
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Jean Frédéric Joliot-Curie** (sinh ngày 19 tháng 3 năm 1900 – 14 tháng 8 năm 1958) là nhà vật lý học người Pháp, đã đoạt Giải Nobel Hóa học năm 1935. ## Tiểu sử ###
nhỏ|Một chiếc B757 của OpenSkies **OpenSkies** (trước kia được biết với tên gọi là Elysair) là hãng hàng không hoàn toàn sở hữu của British Airways thuộc Anh với những chuyến bay đầu tiên hoạt
**La Défense** (_Phòng thủ_) là một khu vực đô thị nằm ở ngoại ô thành phố Paris. Đây là khu phố văn phòng quan trọng bậc nhất châu Âu, với nhiều nhà chọc trời, tập
**Trường Thương mại Paris** (tiếng Pháp: _École des hautes études commerciales_) hay **HEC Paris** là một trong những trường kinh doanh danh tiếng, được xem là một trường lớn (_grande école_) danh giá nhất về
**Sân bay Tenerife Nam** , tên trước đây là **Tenerife South-Reina Sofia Airport**, là một trong 2 sân bay quốc tế ở đảo Tenerife, một đảo của quần đảo Canaria. trái|German planes at TFS Sân
**Calais** là tỉnh lỵ của tỉnh Pas-de-Calais, thuộc vùng Hauts-de-France của nước Pháp, có dân số là 77.333 người (thời điểm 1999). ## Khí hậu Calais có khí hậu ôn đới đại dương (phân loại
**Jules Gaucher** (13 tháng 9 năm 1905 – 13 tháng 3 năm 1954) là một sĩ quan người Pháp nổi tiếng do quá trình chỉ huy quân Lê Dương trên chiến trường Đông Dương. Ông
**Ahmed Ben Bella** (tiếng Ả Rập: أحمد بن بلة Ahmad bin Billah; ngày 25 tháng 12 năm 1916 – 11 tháng 4 năm 2012) là một người lính xã hội chủ nghĩa Algeria và cách
**François Maurice Adrien Marie Mitterrand** (Phát âm tiếng Việt như là phờ-răng-xoa mít-tờ-răng; sinh ngày 16 tháng 10 năm 1916 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1996) là Tổng thống Pháp và Đồng hoàng
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
**Chính phủ Vichy**, hoặc **Phát xít Pháp** hay chỉ gọi đơn giản là **Vichy** là thuật ngữ thường dược dùng để miêu tả chính phủ Pháp hợp tác với phe Trục từ tháng 7 năm
**Giao thông Paris** bao gồm hệ thống giao thông công cộng, đường bộ và đường không của thành phố. Là một đô thị lớn và đông dân, mạng lưới giao thông công cộng của Paris
**Duy Tân** (chữ Hán: 維新 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc Vĩnh San** (阮福永珊), là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ở
**Trận Montcornet** diễn ra vào ngày 17 tháng 5 năm 1940, khi Chuẩn tướng Charles de Gaulle dẫn Sư đoàn Thiết giáp số 4 (Pháp) từ Laon phản công vào các đơn vị thuộc Quân
**Dassault Rafale** () là một máy bay chiến đấu đa nhiệm vụ cánh tam giác hai động cơ thế hệ thứ tư của Pháp, được thiết kế và chế tạo bởi Dassault Aviation. Dassault đã
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**Sân bay quốc tế Cairo** (Arabic: مطار القاهرة الدولي) là một sân bay dân sự lớn ở thủ đô Cairo, Ai Cập. Đây là trung tâm hoạt động hàng đầu của hãng hàng không EgyptAir.
**Sân bay quốc tế Marco Polo Venizia** là một sân bay trên đất liền gần Venezia của Italia, ở Tessera, một _frazione_ của commune of Venice. Sân bay được đặt tên theo nhà du hành
**Cha Pierre** (tiếng Pháp: _Abbé Pierre_), tên thật là **Henri Grouès**, (5 tháng 8 năm 1912 tại Lyon - 22 tháng 1 năm 2007 tại Paris) là một linh mục Công giáo, người kháng chiến,
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Bundesarchiv_B_145_Bild-F010324-0002,_Flughafen_K%C3%B6ln-Bonn,_Adenauer,_de_Gaulle-cropped.jpg|nhỏ|[[Tổng thống Pháp Charles de Gaulle vào năm 1961]] Một cuộc trưng cầu ý dân về thể thức bầu cử tổng thống được tổ chức tại Pháp vào ngày 28 tháng 10 năm 1962. Kết