✨Hải chiến cảng Lữ Thuận

Hải chiến cảng Lữ Thuận

Hải chiến cảng Lữ Thuận là trận hải chiến giữa Hải quân Đế quốc Nga và Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại cảng Lữ Thuận trong hai ngày 8 và 9 tháng 2 năm 1904. Đây là trận mở đầu của Chiến tranh Nga-Nhật 1904-1905. Trận chiến bắt đầu bằng một cuộc tấn công bất ngờ trong đêm mùng 8 của một toán khu trục hạm Nhật Bản vào hạm đội Thái Bình Dương của Nga đang neo đậu tại cảng Lữ Thuận ở Mãn Châu. Tiếp theo vào sáng mùng 9, diễn ra cuộc giao tranh giữa các tàu chiến của hai bên. Trận chiến kết thúc bất phân thắng bại, tuy nhiên từ đó hạm đội của Nga bị hải quân Nhật phong tỏa tại Lữ Thuận cho đến tận tháng 5 năm 1904.

Bối cảnh

Chiến tranh Nga-Nhật mở đầu bằng cuộc tấn công bất ngờ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào Hạm đội Thái Bình Dương Nga đóng tại cảng Lữ Thuận (còn gọi là cảng Athur) và cảng Chemulpo (nay là cảng Incheon).

Kế hoạch ban đầu của Đô đốc Togo là đột kích vào cảng Arthur với Sư đoàn 1 của Hạm đội liên hợp, bao gồm các thiết giáp hạm Hatsuse, Shikishima, Asahi, FujiYashima, dẫn đầu là kỳ hạm Mikasa, và Sư đoàn 2, bao gồm các tuần dương hạm Iwate, Azuma, Izumo, YakumoTokiwa. Những tàu chính yếu này được hộ tống bởi 13 khu trục hạm và khoảng tàu phóng lôi nhỏ. Lực lượng Dự bị bao gồm các tuần dương hạm Kasagi, Chitose, TakasagoYoshino. Với sức mạnh vượt trội và yếu tố bất ngờ, ông hy vọng có thể giáng một đòn chí tử vào hạm đội Nga trước khi quan hệ ngoại giao giữa 2 chính phủ Nga - Nhật bị cắt đứt.

Về phía Nga, Phó đô đốc Oskar Victorovich Stark có các thiết giáp hạm Petropavlovsk, Sevastopol, Peresvet, Pobeda, Poltava, TsesarevichRetvizan, trợ lực bằng các tuần dương hạm Pallada, Diana, Askold, Novik, và Boyarin, tất cả đều thả neo trong sự bảo vệ ở căn cứ hải quân Arthur. Tuy nhiên, việc phòng thủ cảng Arthur không xứng với tầm cỡ của nó, vì chỉ có một số ít pháo bờ biển được triển khai, ngân quỹ để tăng cường phòng thủ được chia cho cảng Đại Liên ở gần đó, và phần lớn giới sĩ quan đang tổ chức một bữa tiệc tại nhà Đô đốc Stark vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1904.

Vì Đô đốc Togo đã nhận được thông tin sai lầm từ điệp viên địa phương ở trong và xung quanh cảng Arthur rằng lính giữ cảng trong đồn đang ở trong tình trạng báo động cao, ông không muốn mạo hiểm những chiến thuyền quý giá của mình với pháo bờ biển Nga và do đó giữ hạm đội chính của mình ở lại. Thay vào đó, lực lượng khu trục hạm được chia làm hai thê đội tấn công, một thê đội với các đội tàu nhỏ số 1, 2 và 3 tấn công cảng Arthur, và thê đội kia với đội tàu nhỏ số 4 và 5 tấn công căn cứ Nga ở Đại Liên.

Cuộc tấn công đêm 8 tháng 2 năm 1904

Vào khoảng 22 giờ 30 ngày 8 tháng 2 năm 1904, thê đội tấn công cảng Arthur gồm 10 khu trục hạm giáp mặt với các khu trục hạm Nga đi tuần. Người Nga được lệnh không được bắt đầu trận đánh, và báo cáo với sở chỉ huy. Tuy vậy, vì cuộc chạm trán này mà 2 khu trục hạm Nhật Bản đụng nhau và rớt lại phía sau, những tàu còn lại trở nên phân tán. Khoảng 00 giờ 28 ngày 9 tháng 2 năm 1904, 4 khu trục hạm Nhật Bản đầu tiên tiếp cận cảng Arthur mà không bị phát hiện, phóng ngư lôi tấn công tàu Pallada (trúng giữa thân tàu, bốc cháy và lật úp) và tàu Retvizan (bị thủng một lỗ ở mũi tàu). Các khu trục hạm khác của Nhật Bản không thành công được như thế, vì họ đến quá muộn và mất đi yếu tố bất nhờ, và tấn công đơn lẻ thay vì theo nhóm. Tuy vậy, họ cũng có thể vô hiệu hóa tàu chiến mạnh nhất của hạm đội Nga, thiết giáp hạm Tsesarevitch. Khu trục hạm Nhật Bản Oboro tấn công lần cuối, khoảng 2 giờ sáng, lúc này người Nga đã thức dậy hết, đèn pha rọi và hỏa lực giúp việc tấn công bằng thủy lôi thực hiện được ở tầm gần và tăng độ chính xác.

Cho dù có được điều kiện lý tưởng của một cuộc tấn công bất ngờ, kết quả tương đối nghèo nàn. Trong số 16 thủy lôi được phóng ra, chỉ có ba cái trúng đích và phát nổ. Nhưng thần may mắn không đứng về phía người Nga vì 2 trong số 3 thủy lôi bắn trúng những thiết giáp hạm tốt nhất: RetvizanTsesarevich, cũng như tuần dương hạm hộ vệ _Pallada_phải nằm bất động đến hàng tuần lễ.

Đụng độ trên mặt biển ngày 9 tháng 2 năm 1904

Sau cuộc tấn công đêm, lúc 8 giờ sáng, Đô đốc Togo cử thuộc cấp của mình, Phó Đô đốc Shigeto Dewa, với 4 tuần dương hạm làm nhiệm vụ trinh sát khu thả neo của cảng Arthur và đánh giá thiệt hại. Cho đến 9 giờ, Phó Đô đốc Dewa đã đến đủ gần để nhìn thấy hạm đôi Nga qua làn sương mờ buổi sáng. Ông thấy có 12 thiết giáp hạm và tuần dương hạm, 3 hay 4 chiếc dường như bị hư hại nặng hay bị mắc cạn. Các tàu nhỏ ở ngoài đường vào cảng lộn xộn thấy rõ. Dewa tiến đến cách vịnh khoảng 7.500 yard (6.900 m), nhưng không có tàu Nhật nào bị phát hiện, ông tự cho rằng cuộc tấn công đêm đã làm tê liệt thành công hạm đội Nga, và giảm tốc để báo cáo với Đô đốc Togo. Khi Dewa tiến đến gần hơn 3 hải lý (6 km), không nghi ngờ gì nữa, kết luận của ông là sai.

Không biết rằng Hạm đội Nga đã sẵn sàng chiến đấu, Dewa hối thúc Đô đốc Togo rằng thời điểm này đặc biệt thuận lợi cho hạm đội chính tấn công chớp nhoáng. Mặc dù Togo thích lừa Hạm đội Nga ra khỏi sự bảo vệ của pháo bờ biển, kết luận lạc quan sai lầm của Dewa có nghĩa là sự mạo hiểm đã bị phủ nhận. Đô đốc Togo ra lệnh cho Sư đoàn 1 tấn công cảng, với Sư đoàn 3 dự bị ở cánh.

Khi tiến gần đến cảng Arthur, người Nhật gặp tuần dương hạm Nga Boyarin, lúc này đang đi tuần. Boyarin bắn vào tàu Mikasa ở khoảng cách rất xa, rồi quay đầu bỏ chạy. Vào lúc 11 giờ sáng, ở khoảng cách khoảng 8.000 yard (7.000 m), trận chiến giữa hai Hạm đội Nga Nhật bắt đầu. Quân Nhật tập trung pháo hỏa lực cỡ 12 inch vào tấn công các pháo bờ biển trong khi dùng các pháo cỡ nòng 8 inch và 6 inch bắn vào các con tàu Nga. Cả hai bên đều bắn kém, nhưng người Nhật đánh trọng thương các tàu Novik, Petropavlovsk, Poltava, DianaAskold. Tuy vậy, sớm có bằng chứng để nói Dewa đã phạm một lỗi nghiêm trọng. Trong 5 phút đầu của trận đánh, tàu Mikasa bị trúng một quả đạn nảy, nổ tung trên tàu, làm bị thương kỹ sư trưởng, sĩ quan cận vệ đô đốc, và 5 thủy thủ và sĩ quan khác, phá hỏng đài chỉ huy thuyền trưởng ở cuối tàu.

Lúc 12 giờ 20, Đô đốc Togo quyết định thu nhặt xác chết và thoát khỏi cái bẫy. Đây là một bước đi vô cùng nguy hiểm khi phơi cả hạm đội ra trước họng pháo bờ biển của quân Nga. Bất chấp hỏa lực mạnh, các thiết giáp hạm Nhật Bản vẫn hoàn thành được cuộc tấn công và nhanh chóng rút ra khỏi tầm bắn. Các tàu Shikishima, Iwate, FujiHatsuse đều trúng đạn. Các tuần dương hạm của Phó Đô đốc Hikonojo Kamimura cũng bị trúng đạn khi chúng đến điểm ngoặt. Vào lúc này, chiếc Novik chỉ cách các tuần dương hạm Nhật Bản khoảng 3300yard (3.000m) và bắn một loạt ngư lôi. Tất cả đều trượt và chiếc Novik lãnh lại một đòn nặng ở dưới mực nước.

Kết quả

Hải chiến cảng Arthur do đó kết thúc bất phân thắng bại. Người Nga thương vong 150 người, người Nhật khoảng 132 người. Mặc dù không có chiếc tàu nào chìm ở cả hai phía, nhưng nó phải chịu hư hại nặng nề. Tuy vậy, người Nhật sửa được tàu tại cảng cạn ở Sasebo, trong khi hạm đội Nga có rất ít khả năng sửa chữa ở cảng Arthur.

Rõ ràng là Phó Đô đốc Dewa đã không thể đưa đoàn tàu do thám của mình đến đủ gần, và khi tình hình thực tế đã rõ ràng, thì đây là điều bào chữa cho mục tiêu của Đô đốc Togo không chạm trán kẻ địch dưới hỏa lực pháo bờ biển. Lời tuyên chiến chính thức giữa Nga và Nhật được ban bố ngày 10 tháng 2 năm 1904, 1 ngày sau trận đánh.

Các hoạt động hải quân sau đó tại cảng Arthur, từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1904

Ngày 11 tháng 2 năm 1904, tàu thả thủy lôi Nga Yeneisei bắt đầu rải thủy lôi ở đường vào cảng Arthur. Một trong những quả thủy lôi này bị cuốn vào bánh lái của con tàu, phát nổ và làm tàu chìm, mất 120 trên tổng số 200 người trên tàu. Chiếc Yeneisei cũng chìm với tấm bản đổ định vị vị trí thủy lôi. Tàu Boyarin, được cử đi điều tra tai nạn, cũng vướng phải mìn, và bị bỏ đi, mặc dù vẫn nổi. Nó chìm 2 ngày sau đó sau khi trúng phải quả thủy lôi thứ hai.

Mặc dù Đô đốc Togo lại khởi hành từ Sasebo ngày 14 tháng 2 năm 1904, với tất cả các tàu trừ chiếc Fuji. Sáng ngày 24 tháng 2 năm 1904, ông làm đắm 5 tàu vận tải cũ để ngăn đường vào cảng Arthur, kìm chân Hạm đội Nga ở bên trong. Kế hoạch này bị chặn đứng bởi chiếc Retvizan, vẫn thả neo ở ngoài cảng, và vị Tổng đốc Alexeiev hoan hỉ gửi điện tín cho Sa hoàng Nicolas II về thắng lợi vĩ đại của mình. Khi ánh bình minh hé lộ sự thật, chắc hẳn họ phải gửi đi thêm một bức điện nữa.

Ngày 8 tháng 3 năm 1904, Phó Đô đốc Nga Stepan Makarov đến cảng Arthur để nhận nhiệm vụ chỉ huy thay cho viên Đô đốc thiếu may mắn Stark; do đó làm tăng sĩ khí quân Nga. Ông giương cờ của mình lên chiến hạm Askold mới được sửa. Sáng ngày 10 tháng 3 năm 1904, Hạm đội Nga mở cuộc tấn công, đánh vào hạm đội Nhật đang bao vây, nhưng không có mấy hiệu quả. Đêm ngày 10 tháng 3 năm 1904, quân Nhật cố dùng mưu cử 4 khu trục hạm đến gần cảng. Quân Nga sập bẫy, và cử 5 khu trục hạm đuổi theo; và rồi thì quân Nhật thả thủy lôi chặn đường vào cảng và đến vị trí chặn đường về của các khu trục hạm. 2 khu trục hạm Nga bị chìm, bất chấp nỗ lực giải cứu của Đô đốc Makarov.

Ngày 22 tháng 3 năm 1904, 2 chiếc FujiYashima bị Hạm đội Nga do Đô đốc Makarov chỉ huy tấn công, và chiếc Fuji buộc phải rút lui về Sasebo để sửa chữa. Hạm đội Nga tự tin hơn và được huấn luyện tốt hơn nhờ Đô đốc Makarov.

Đáp lại, ngày 27 tháng 3 năm 1904, Togo lại cố gắng phong tỏa cảng Arthur, lần này dùng thêm 4 chiếc tàu vận tải cũ chất đầy đá và xi măng. Cuộc tấn công lại thất bại vì những con tàu vận tải này chìm từ quá xa đường vào cảng.

Ngày 13 tháng 4, Makarov (nay đã chuyển kỳ hạm của mình lên chiếc Petropavlovsk) rời cảng để trợ giúp cho thê đội khu trục hạm ông đã điều lên phía Bắc do thám ở Đại Liên. Ông được hộ tống bởi các con tàu Askold, Diana, Novik, Poltava, Sevastopol, Pobieda, và Peresvyet. Hạm đội Nhật đang chờ đơi, và Makarov rút lui đến nơi nhận được sự bảo vệ của pháo bờ biển tại cảng Arthur. Tuy nhiên, khu vực này đã bị quân Nhật gài thủ lôi. Lúc 9 giờ 43, chiếc Petropavlovsk trúng phải 3 quả thủy lôi, phát nổ và chìm chỉ sau 2 phút. Thảm họa này giết chết 635 thủy thủ sĩ quan, trong đó có Đô đốc Makarov. Lúc 10:15, chiếc Pobieda cũng bị phá hỏng vì thủy lôi. Ngày hôm sau, Đô đốc Togo ra lệnh tất cả các cờ phải treo rủ, và ngày hôm đó là dành để thương tiếc cho địch thủ đã khuất của ông.

Ngày 3 tháng 5 1904, Đô đốc Togo cố gắng lần thứ 3 và lần cuối để chặn đường vào cảng Arthur, lần này với 8 tàu vận tải cũ. Nỗ lực này cũng thất bại, nhưng Đô đốc Togo tuyên bố thành công, do đó mở đường cho Tập đoàn quân số 2 Nhật Bản đổ bộ xuống Mãn Châu. Mặc dù cảng Arthur cũng như là bị phong tỏa, vì người kế thừa của Makarov thiếu sáng kiến, thương vong của quân Nhật cũng bắt đầu gia tăng, phần lớn là vì thủy lôi của Nga.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hải chiến cảng Lữ Thuận** là trận hải chiến giữa Hải quân Đế quốc Nga và Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại cảng Lữ Thuận trong hai ngày 8 và 9 tháng 2 năm
**Hải chiến Hoàng Hải** ( _Kōkai kaisen_ ), một trận hải chiến của Chiến tranh Nga-Nhật, là một trận chiến diễn ra ngày 10 tháng 8 năm 1904. Trong Hải quân Nga, nó được gọi
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Hải chiến Tsushima** hay **Hải chiến Đối Mã** (tiếng Nhật: 日本海海戦, _Nihonkai-Kaisen_; âm Hán-Việt Nhật Bản hải hải chiến; tiếng Nga: Цусимское сражение, _Stusimkoye Srazhenie_) là một trận chiến trên biển trong Chiến tranh Nga-Nhật
thumb|Trung tướng [[Yamaji Motoharu|Yamaji chỉ huy cuộc tấn công cảng Lữ Thuận (tranh vẽ bởi , 1894]] **Thảm sát Lữ Thuận** hay **Thảm sát Port Arthur** diễn ra trong chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất
**Danh sách các trận chiến** này được liệt kê mang **tính địa lý, theo từng quốc gia với lãnh thổ hiện tại**. ## Áo * Trận đồng Marchfeld (**Trận Dürnkrut và Jedenspeigen**) - 1278 *
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
**Chiến dịch Kavkaz** là tên gọi chung cho một chuỗi các hoạt động quân sự tại khu vực Kavkaz diễn ra giữa quân đội Liên Xô và quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến
**Chiến dịch Market Garden** là một chiến dịch quân sự lớn của quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra từ ngày 17 tháng 9 năm 1944 tới ngày 25
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
Cuộc **Chiến tranh nhân dân giải phóng Nam Tư** là một bộ phận quan trọng của Mặt trận phía đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu. Cuộc chiến bắt đầu từ
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Chiến dịch Neptune** (mã hiệu: **Halcyon**), là mật danh của **cuộc đổ bộ vào Normandie**, chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đường hàng không của quân đội Đồng Minh ở Chiến dịch
**Chiến dịch Blau** (tiếng Đức: **_Fall Blau_**) là mật danh của Kế hoạch tổng tấn công từ mùa hè năm 1942 của quân đội Đức Quốc xã trên toàn bộ cánh Nam của mặt trận
**Chiến dịch tấn công Proskurov (Khmelnitskyi)–Chernovtsy** (từ 4 tháng 3 đến 17 tháng 4 năm 1944) là một trong các trận đánh lớn nhất giữa Hồng quân Liên Xô và Quân đội Đức quốc xã
**Chiến dịch Smolensk** (7 tháng 8 năm 1943 – 2 tháng 10 năm 1943) hay còn gọi là **Trận Smolensk lần thứ hai** là một Chiến dịch tấn công chiến lược của Hồng quân Liên
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**Đế quốc Anh** () bao gồm các vùng tự trị, thuộc địa được bảo hộ, ủy thác và những lãnh thổ khác do Khối liên hiệp Anh và các quốc gia tiền thân của nó
phải|Thiết giáp hạm [[USS Texas (1892)|USS _Texas_, chế tạo năm 1892, là thiết giáp hạm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ. Ảnh màu Photochrom được chụp vào khoảng năm 1898.]] phải|[[HMS Ocean (1898)|HMS _Ocean_,
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Chiến dịch Mozdok–Stavropol** là đòn phản công lớn đầu tiên trong năm 1943 của Cụm tác chiến Bắc Kavkaz (Liên Xô) vào Cụm tập đoàn quân A (Đức) trên một chính diện rộng hơn 150 km,
thumb|Bản in khắc gỗ của Nhật Bản mô tả một cuộc tấn công của bộ binh trong [[Chiến tranh Nga–Nhật.]] **Chiến thuật biển người** (Hán ngữ: **人海戰術**: **Nhân hải chiến thuật**) là một chiến thuật
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**Chiến dịch tấn công Yelnia–Dorogobuzh** là hoạt động quân sự mở đầu cho giai đoạn 2 của Chiến dịch Smolensk (1943). Từ ngày 28 tháng 8 đến ngày 16 tháng 9 năm 1943, Phương diện
**Trận chiến nước Pháp** (), còn được gọi là **Chiến dịch phía Tây** (**'), **Chiến dịch nước Pháp** (, ) và **Nước Pháp thất thủ''', là cuộc xâm lược của Đức nhằm vào Pháp, Bỉ,
**Trận Kunersdorf**, còn viết là **Trận Cunnersdorf** với bản thân ông cũng chỉ thoát nạn trong gang tấc. biểu dương sâu sắc sức mạnh của quân Nga. Ngoài ra, thắng lợi này cũng chứng tỏ
Ngày **9 tháng 2** là ngày thứ 40 trong lịch Gregory. Còn 325 ngày trong năm (326 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *474 – Zeno đăng quang đồng hoàng đế của Đế quốc
**Aleksandr Vasiliyevich Kolchak** (, 16 tháng 11 [lịch cũ 4 tháng 11] năm 1874-7 tháng 2 năm 1920) là một chỉ huy hải quân Nga, người thám hiểm Bắc cực và đầu sau đó là
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
**Cuộc chiến Yom Kippur**, **Chiến tranh Ramadan** hay **Cuộc chiến tháng 10** (; chuyển tự: _Milkhemet Yom HaKipurim_ or מלחמת יום כיפור, _Milkhemet Yom Kipur_; ; chuyển tự: _harb 'uktubar_ hoặc حرب تشرين, _ħarb Tishrin_),
**Chiến tranh Ả Rập – Israel năm 1948**, được người Do Thái gọi là **Chiến tranh giành độc lập** và **Chiến tranh giải phóng**, còn người Palestine gọi là **al Nakba** (tiếng Ả Rập: النكبة,
**Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia**, hay còn được gọi là **Chiến tranh biên giới Tây Nam**; , UNGEGN: _Sângkréam Kâmpŭchéa-Viĕtnam_; Những người theo chủ nghĩa dân tộc Khmer gọi là **Việt
**Chiến dịch Tunisia** (hay còn gọi là **Trận Tunisia**) là một loạt trận đánh diễn ra tại Tunisia trong Chiến dịch Bắc Phi thời chiến tranh Thế giới thứ hai, giữa các lực lượng Phe
**Trận El Alamein thứ hai** diễn ra trong vòng 20 ngày từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1942 ở gần thành phố duyên hải El Alamein của Ai Cập, và chiến thắng
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Chiến dịch Krym – Sevastopol (1941–1942)** bao gồm toàn bộ các trận chiến đấu của quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã cùng với quân Romania tại bán đảo Krym từ tháng
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Chiến dịch tấn công Viên** là một trong các chiến dịch quân sự lớn cuối cùng ở châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch do Phương diện quân Ukraina 3 và
**Chiến tranh sáu ngày** (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, _ħarb al‑ayyam as‑sitta_; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, _Milhemet Sheshet Ha‑Yamim_), cũng gọi là **Chiến tranh Ả Rập-Israel**, **Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba**, **an‑Naksah
**Chiến dịch Vilnius** là đòn phát triển tiếp tục tấn công phát huy chiến quả sau Chiến dịch Minsk của Phương diện quân Byelorussia 3 (Liên Xô) chống lại các lực lượng Đức Quốc xã
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Chiến dịch Lyublin–Brest** hay **Chiến dịch Lublin-Brest** là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tiếp tục tấn công vào Cụm tập đoàn
**Chiến dịch Nước Lũ** là một loạt các cuộc tấn công nhắm vào nhiều ngôi chùa Phật giáo tại các thành phố lớn ở Việt Nam Cộng hòa vào ngày 21 tháng 8 năm 1963.
**Chiến tranh Việt – Xiêm** (1833–1834) là một cuộc chiến gồm hai đợt tấn công của quân Xiêm vào lãnh thổ Việt Nam thời Nhà Nguyễn của vua Minh Mạng, đợt thứ nhất khởi đầu
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước