✨Elisabeth nước Hungary

Elisabeth nước Hungary

Elisabeth đang phân phát bánh mì cho người nghèo Erzsébet của Vương quốc Hungary (tiếng Đức: Heilige Elisabeth von Thüringen, tiếng Hungary: Árpád-házi Szent Erzsébet, tiếng Latinh: Elisabeth Hungariae, sinh ngày 07 tháng 7 năm 1207 - mất ngày 17 tháng 11 năm 1231) là một công chúa của Vương quốc Hungary, một nữ tu và là một vị Thánh được biết đến với tên gọi Thánh Elisabeth của Hung Gia Lợi. Theo truyền thuyết, cô đã được sinh ra trong lâu đài Sárospatak, nước Hungary vào ngày 07 tháng 7 năm 1207 nhưng theo một giả thiết khác thì cô được sinh ra tại vùng Pressburg, Vương quốc Hungary (ngày nay là Bratislava, Slovakia), nơi cô từng sống trong lâu đài Posonium cho đến khi bốn tuổi.

Cô là con gái của Andrew II xứ Hungary và Gertrude xứ Merania, khi lên bốn tuổi cô được đưa đến lãnh địa của thế lực Thuringia ở miền trung nước Đức để trở thành một cô dâu tương lai qua đó củng cố liên minh chính trị giữa hai nhà. Elisabeth đã kết hôn ở tuổi 14 và góa bụa ở tuổi 20. Ở tuổi này, cô đã từ bỏ tài sản giàu có của mình, đem chia và giúp đỡ cho những người nghèo khó, đầu tư xây dựng các nhà thương, trạm xá để giúp đỡ cho những người nghèo khổ, cơ cực không có tiền thuốc men.

Với những hành động cao cả đó, cô đã trở thành một biểu tượng của tổ chức từ thiện Thiên Chúa giáo ở Đức và những nơi khác sau khi cô qua đời ở tuổi 24. Elisabeth dù sinh ra trong một gia đình quyền quý sang trọng nhưng thay vì chọn một đời sống xa hoa nhàn hạ, Elizabeth lại tự nguyện đi theo con đường khổ hạnh và hãm mình (tự hành xác) điều đó đã khiến người dân châu Âu niềm cảm mến sâu xa và cô được phong thánh bởi Giáo hoàng Grêgôriô IX vào năm 1235.

Tiểu sử

Thời thơ ấu

Elisabeth là Công chúa nước Hungary, con gái của Andrew II xứ Hungary và Gertrude xứ Merania, khi lên bốn tuổi, cô phải đính hôn với hoàng tử Ludwig hay Louis 11 tuổi, con của Landgrave miền Thuringia trong một cuộc hôn nhân có phần mang màu sắc chính trị, từ đó cô sinh sống và lớn lên tại cung điện Thuringia. Tranh vẽ Elizabeth khi còn thơ ấu Khi lớn lên, Elisabeth có tính tình khác hẳn với các quý tộc và công chúa ở trong lâu đài, cô không ăn mặc, trang điểm diêm dúa hoặc khoác lên mình những phục sức quý báu mà ăn mặc giản dị, hiền hậu, mặt khác luôn quan tâm đến những người hầu, kẻ hạ, những người nghèo… Điều này khiến Công chúa Sophia, mẹ của Luis tức mẹ chồng của cô hoàn toàn không hài lòng. Khi bà này dẫn Elisabeth với cô con gái mình tới nhà thờ, cả hai trang điểm như công chúa thì Elisabeth lại cởi vương miện bằng đá ra và nói không muốn mang nó đến trước Thiên Chúa phải đội mão gai. Sau đó lúc cô lên 14 tuổi và Luis lên 20 thì hai người kết hôn. Năm sau họ có con đầu lòng và 2 năm sau nữa sinh con thứ.

Cuộc sống hàng ngày của cô diễn ra bình lặng gồm việc cầu nguyện, làm việc bác ái, cùng với các phụ nữ dệt len cho người nghèo. Rảo quanh các làng quê phân phát các đồ cứu trợ khi xảy ra các trận lũ lụt, dịch bệnh và hạn hán. Có một truyền thuyết kể lại rằng, vào một ngày mùa đông, Luis đi săn về gặp vợ cong mình xuống dưới sức nặng các đồ ăn giấu trong vạt áo. Ông không biết cô mang những thứ gì. Và khi kiểm tra thì chỉ thấy những bó hoa hồng trắng, đương nhiên độ xác thực của truyền thuyết này bị nghi ngờ. Thời gian sau, cô tiếp tục săn sóc các bệnh nhân nghèo, cấp đồ ăn cho họ, băng bó các vết thương.

Trở thành góa bụa

Elisabeth đang hành xác tại nhà nguyện, họa phẩm của [[Philip Hermogenes Calderon vào năm 1891]] Sau sáu năm thành hôn, lúc này lịch sử châu Âu có nhiều biến động, chiến tranh Thập Tự chinh diễn ra, Luis phải ra trận vì danh dự. Lúc này cô ở nhà dù nhớ thương chồng nhưng vẫn nhiệt thành nâng dỡ người nghèo những người do hoàn cảnh chiến tranh xô đẩy. Tiếp tục phân phát lúa mì dự trữ, cô thậm chí còn bán cả nữ trang và đá quý để xây cất những nhà thương.

Tuy nhiên một tai họa đã xảy ra khi chồng cô là tham gia đoàn quân thánh giá và thiệt mạng vào năm 1227 khi cô sinh người con thứ ba. Gia đình nhà chồng lúc này coi cô là người hoang phí tiền bạc của hoàng gia nên đã đối xử tệ và thậm chí trục xuất cô khỏi hoàng cung, sống một cuộc sống cơ cực và tạm bợ tại các tu viện, mặc dù cô không hề oán trách và coi đây như là sự thử thách. Tuy nhiên sau cuộc Thập Tự chinh, những người tùy tùngg bên chồng cô trở về đã phục hồi quyền lợi cho cô vì con trai của cô phải là người thừa kế chính thức.

Cuối đời

Một nhà thờ thánh Elisabeth tại [[Hoa Kỳ]] Vào năm 1229, cô gia nhập dòng Ba Phanxicô, và dùng quãng đời còn lại để chăm sóc người nghèo trong một nhà thương mà cô đã thiết lập để vinh danh Thánh Phanxicô. Vì thể trang yếu đuối và phải lao động nhiều nên sức khỏe của cô ngày càng sa sút, và sau cùng cô chết vào ngày 17 tháng 11 năm 1231 khi chỉ mới 24 tuổi.

Bốn năm sau, Giáo hoàng Gregoriô IX đã tôn phong cô lên bậc hiển thánh. Sác lệnh này của Đức Giáo hoàng vẫn được trưng bày trong bảo tàng Schatzkammer Deutschordenskirche ở Viên, Áo. Thi thể của cô được đặt trong một quan tài bằng vàng rất lộng lẫy ở đền thờ và nó vẫn còn để được trưng bày cho công chúng thấy cho đến ngày hôm nay trong Giáo hội Elisabeth (Marburg).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Elisabeth đang phân phát bánh mì cho người nghèo **Erzsébet của Vương quốc Hungary** (tiếng Đức: _Heilige Elisabeth von Thüringen_, tiếng Hungary: _Árpád-házi Szent Erzsébet_, tiếng Latinh: Elisabeth Hungariae, sinh ngày 07 tháng 7 năm
**Elisabeth của Áo** (; 5 tháng 7 năm 1554 – 22 tháng 1 năm 1592) là Vương hậu nước Pháp từ năm 1570 đến năm 1574 thông qua cuộc hôn nhân với Charles IX của
nhỏ|Lajos I khi vừa mới chào đời, theo cuốn _[[Illuminated Chronicle_.]] **Quốc vương Lajos I của Hungary** (; 5/3/1326 – 10/9/1382), còn gọi là **Lajos Vĩ đại**, **Lajos Đại đế** (; ; ) hay **Lajos
**Maria Elisabeth của Áo** (Maria Elisabeth Josepha Johanna Antonia; sinh ngày 13 tháng 8 năm 1743 - mất 22 tháng 9 năm 1808) là con thứ sáu và con gái thứ ba còn sống đến
nhỏ|[[Vương miện Thần thánh Hungary|Vương miện Thần thánh của Hungary (Vương miện của Thánh Stephen)]] **Lễ đăng quang của quốc vương Hungary** là một buổi lễ trong đó vua hoặc nữ vương của Vương quốc
**Elisabeth Christine xứ Braunschweig-Wolfenbüttel** (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1691 – mất ngày 21 tháng 12 năm 1750) là Công nữ của Công quốc Braunschweig-Wolfenbüttel, Hoàng hậu của Đế quốc La Mã, Vương hậu
**Anna của Bohemia và Hungary** (23 tháng 7 năm 1503 – 27 tháng 1 năm 1547), đôi khi được biết đến với tên gọi **Anna Jagellonica**, là Vương hậu nước Đức, Bohemia và Hungary là
** Đế quốc Áo-Hung**, **Nền quân chủ kép**, hoặc gọi đơn giản là _Áo_, là một chính thể quân chủ lập hiến và cường quốc ở Trung Âu. Đế quốc Áo-Hung được thành lập năm
nhỏ|317x317px|Cột Đức Mẹ ở [[Třeboň (2020)]] nhỏ|317x317px|Bức tượng Đức Mẹ (2020) **Cột Đức Mẹ ở Třeboň** (tiếng Séc: _Mariánský sloup v Třeboni_) là một trong những tượng đài tôn giáo nổi tiếng về Đức Mẹ,
nhỏ|phải|Thánh [[Elisabeth nước Hungary|Elizabeth của Thuringia đang bố thí cho thường dân]] **Của bố thí** (_Alms_) là tiền, đồ ăn, thức uống hoặc các hàng hóa vật chất khác được tặng cho những người sống
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Sophie Friederike của Áo** (tiếng Đức: Sophie Friederike von Österreich; 5 tháng 3 năm 185529 tháng 5 năm 1857) là con đầu lòng của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. ## Tiểu
**Gisela của Áo** (tiếng Đức: _Gisela von Österreich_; 12 tháng 7 năm 1856 – 27 tháng 7 năm 1932) là con gái của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và là Vương
**Maria Antonia của Áo** (tiếng Đức: _Maria Antonia von Österreich_; 2 tháng 11 năm 1755 – 16 tháng 10 năm 1793), nguyên là Nữ Đại công tước Áo, thường được biết đến với tên Pháp
**Maria Christina** (đôi khi được viết là **_Marie Christine_**) **Johanna Josepha Antonia** (sinh ngày 13 tháng 5 năm 1742 - mất ngày 24 tháng 6 năm 1798), còn được gọi là **Maria Christina của Áo**
**Franz II** (tiếng Anh: Francis II; 12 tháng 2 năm 1768 – 2 tháng 3 năm 1835) là Hoàng đế cuối cùng của Đế quốc La Mã Thần thánh (1792 – 1806) với đế hiệu
nhỏ|Lễ rửa tội của Władysław III tại [[Nhà thờ chính tòa Wawel|Nhà thờ Chính tòa Wawell, Kraków năm 1435.]] **Władysław III** Warneńczyk (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1424 tại Cracow, mất ngày 10 tháng
**Nữ Đại vương công Maria Anna của Áo** (Maria Anna Josepha Antonia; 6 tháng 10 năm 1738 - 19 tháng 11 năm 1789) là con thứ hai của Francis I và Maria Theresia. Vì là
**Maria Teresa của Napoli và Sicilia** (; ; tên đầy đủ: _Maria Teresa Carolina Giuseppina_; 6 tháng 6 1772 – 13 tháng 4 năm 1807) là Hoàng hậu La Mã Thần thánh cuối cùng và
**Budapest** () là thủ đô và thành phố đông dân nhất của Hungary, và một trong những thành phố lớn nhất trong Liên minh Châu Âu. Với dân số ước tính năm 2016 là 1.752.704
nhỏ|302x302px|Ảnh Liszt của Nadal, năm 1886, 4 tháng trước khi ông mất **Franz Liszt** (; ; 22 tháng 10 năm 1811 - 31 tháng 7 năm 1886) là một nghệ sĩ piano và nhà soạn
Kaiserschmarrn với nước sốt táo Kaiserschmarrn ăn kèm với kem, trái cây và sốt việt quất Kaiserschmarrn với sốt làm từ quả của cây ỏng ảnh Hoàng đế [[Franz Joseph I]] Hoàng đế [[Franz Joseph
**Nhà Habsburg-Lothringen** (tiếng Đức: _Haus Habsburg-Lothringen_; tiếng Pháp: _Maison de Habsbourg-Lorraine_; tiếng Anh: _House of Habsburg-Lorraine_) là hoàng tộc đứng đầu Quân chủ Habsburg, thay thế cho Nhà Habsburg đã tuyệt tự dòng nam sau
Nữ bá tước Erzsébet **Báthory** (_Báthory Orsolya_ trong tiếng Hung, _Alžbeta Bátoriová_ trong tiếng Slovak, _Alžběta Báthoryová_ trong tiếng Séc, _Elżbieta Batory_ trong tiếng Ba Lan) (sinh ngày 7/8/1560 – mất ngày 21/8/1614 hoặc trước
**Dobos torte** hay còn gọi là **Dobosh** (phiên âm: _[ˈdoboʃ]_, tiếng Hungary: _dobostorta_), là một loại bánh bông lan Hungary với nhiều lớp kem bơ sôcôla xếp chồng lên nhau và lớp trên cùng phủ
**María Luisa của Tây Ban Nha hay María Luisa de Borbón y Wettin** (tiếng Tây Ban Nha: _María Luisa de España_, tiếng Đức: _Maria Ludovica von Spanien_; 24 tháng 11 năm 1745 – 15 tháng
**Johanna của Áo** (tiếng Đức: _Johanna von Österreich_, tiếng Ý: _Giovanna d'Austria_, tiếng Anh: _Joanna of Austria_; 24 tháng 1 năm 1547 – 11 tháng 4 năm 1578) là một Nữ Đại Vương công Áo.
**Maria Karolina của Áo** (; tên đầy đủ: _Maria Karolina Luise Josepha Johanna Antonia_; 13 tháng 8 năm 1752 – 8 tháng 9 năm 1814) là Vương hậu của Napoli và Sicilia với tư cách
**Louis XIII** (27 tháng 9 1601—14 tháng 5 1643) là một vị vua thuộc vương triều Bourbon với tước hiệu là Vua của Pháp từ 1610 đến 1643 và Vua của Navarra (với danh xưng
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Casimir III Vĩ đại** (tiếng Ba Lan: Kazimierz III Wielki; 30 tháng 4 năm 1310 – 5 tháng 11 năm 1370) làm vua Ba Lan từ năm 1333 đến năm 1370. Ông là con trai
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
**Rudolf của Áo** (_Rudolf Franz Karl Josef_; 21 tháng 8 năm 1858 – 30 tháng 1 năm 1889) là người con thứ ba và là con trai duy nhất của Hoàng đế Franz Joseph I
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Alphons Egli trở thành tổng thống Thụy Sĩ **Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha gia nhập Liên minh châu Âu *13 tháng 1: Nội
thumb|Huy hiệu của dòng Ernestines **Các công quốc Ernestine** (tiếng Đức: _Ernestinische Herzogtümer_), còn được gọi là các công quốc Sachsen (Sächsische Herzogtümer, mặc dù các công quốc được cai trị bởi dòng Albertine gồm
**Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Gotha**, có biệt danh là **Ernst Ngoan đạo** (25 tháng 12 năm 1601 – 26 tháng 3 năm 1675) là công tước của Sachsen-Gotha và Sachsen-Altenburg thuộc Các công quốc
**Rococo**, hay còn được gọi là **Roccoco** hoặc **Hậu Baroque**, là một phong cách kiến trúc, nghệ thuật và trang trí đặc biệt cầu kỳ và kịch tính. Phong cách này là sự kết hợp
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Charlotte Aglaé của Orléans** (; ; 22 tháng 10 năm 1700 – 19 tháng 1 năm 1761) là con gái thứ ba của Philippe II xứ Orléans và Françoise Marie de Bourbon, và khi sinh
Theo lịch Gregory, năm **1899** (số La Mã: **MDCCCXCIX**) là năm bắt đầu từ ngày Chủ Nhật. ## Sự kiện ### Tháng 1 *8 tháng 1: Thành lập câu lạc bộ SK Rapid Wien *17
**Trại tập trung Auschwitz** ( ) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính
**Johnny Weissmuller** (2 tháng 6 năm 1904 - 20 tháng 1 năm 1984) là một vận động viên bơi lội và diễn viên người Mỹ gốc Áo gốc Hungary, nổi tiếng với vai người đàn
**Friedrich Wilhelm IV** (15 tháng 10 năm 1795 – 2 tháng 1 năm 1861) là vua nước Phổ từ ngày 4 tháng 6 năm 1840 cho đến khi băng hà vào ngày 2 tháng 1

Tiếng Anh: John Nepomuk Maria Joseph Anthony Xavier Vincent Aloysius Francis de Paula Stanislaus Bernard Paul Felix Damasus | kiểu hoàng tộc = Vương tộc | hoàng tộc = Nhà Wettin | cha =
**Viên** (phiên âm theo tên tiếng Pháp: _Vienne_) hay **Wien** (tên gốc tiếng Đức, ; tiếng Bavaria: _Wean_) là thủ đô liên bang của Cộng hòa Áo, đồng thời là thành phố lớn nhất, và
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: Rudolf Gnägi trở thành tổng thống Thụy Sĩ *24 tháng 1: Động đất ở Muradiye, Thổ Nhĩ Kỳ, khoảng 3,85 người chết ### Tháng 2
**Jan I Olbracht** (27 tháng 12, 1459 – 17 tháng 6, 1501); sử liệu Tiếng Anh ghi là John I Albert. Ông là Vua của Ba Lan trong khoảng thời gian từ năm 1492 đến