✨Franz Liszt

Franz Liszt

nhỏ|302x302px|Ảnh Liszt của Nadal, năm 1886, 4 tháng trước khi ông mất Franz Liszt (; ; 22 tháng 10 năm 1811 - 31 tháng 7 năm 1886) là một nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc người Hungary. Ông là nhạc sĩ có danh tiếng ở khắp châu Âu vào thế kỉ 19 nhờ có kỹ thuật điêu luyện bậc nhất trên bàn phím. Ngày nay ông vẫn được xem như là một trong những nghệ sĩ piano lớn nhất mọi thời đại với các tác phẩm kinh điển như bản Hungarian Rhapsody số 2.

Cuộc đời và sự nghiệp

Thời thơ ấu của một thần đồng

Franz Liszt sinh ngày 22 tháng 10 năm 1811 tại Doborján thuộc vương quốc Hungary, sau này trở thành một phần đế quốc Habsburg. Nguyên thủy tên ông là Franciscus nhưng những người thân thuộc gọi ông là Franz theo cách của người Đức gọi tên Franciscus. Bố mẹ ông là Adam và Maria Anna Liszt (nhũ danh Lager). trái|nhỏ|Maria Anna Lager (1788-1866), mẹ của Liszt Cha của Liszt, Adam Liszt trong những năm đầu thập kỉ 1790 là giáo viên dạy tiếng Hungary cho trường trung học Pressburg (nay là Bratislava, thủ đô Slovakia) trong vòng 5 năm. Thời đó tiếng Hungary không phải là tiếng nói chính thức trong vùng mà là tiếng Đức. Còn ngôn ngữ hành chính là tiếng Latin. Dù vậy Franz mặc dù lưu loát tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Ý nhưng hầu như chẳng biết tiếng Hungary. Đến những năm 1870 khi mọi người bị bắt buộc phải học tiếng Hungary, mặc dù rất cố gắng ông vẫn không học được.

Dòng dõi của ông gây ra nhiều tranh cãi bởi hầu hết các tài liệu quan trọng về ông đều bị thất lạc. Ông tổ của Franz Liszt là Sebastian Liszt là người Đức đến Hungary vào đầu thế kỉ 18. Vì quốc tịch của con là thừa hưởng của cha nên ông nội và cha Franz Liszt đều mang quốc tịch Đức, mẹ ông có nguồn gốc từ Áo, thời đó cũng được xem là Đức luôn. Như vậy thì Franz Liszt mang quốc tịch Đức dù sinh ra tại Hungary, không phải là người Hung. Tuy vậy giấy khai sinh của Sebastian cũng không được tìm thấy trong văn khố Đức hay Áo, còn văn khố Hungary bị người Thổ Nhĩ Kỳ phá hoại rất nhiều. Do vậy chưa có gì chắc chắn về nguồn gốc Đức của Sebastian. Nhưng trong cuộc đời chính Franz lúc thì nhận rằng mình mang quốc tịch Đức, lúc thì Hungary, các con ông mang quốc tịch Hungary.

Theo các nguồn thông tin chính thức thì ngay từ thời thơ ấu Franz Liszt đã bộc lộ thiên tài của mình. Mơ ước trở thành nhạc sĩ chuyên nghiệp là của bố ông, Adam Liszt, người chơi rất nhiều nhạc cụ từ piano đến violin, cello, guitar nhưng do hoàn cảnh không cho phép giấc mơ ấy thành hiện thực. Franz được sinh ra trong môi trường âm nhạc và điều này hẳn ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời ông. Bản thân Liszt đã phải tập luyện rất nhiều dưới sự kèm cặp của bố từ năm lên 7 tuổi. Theo những thư từ của người cha thì ông đã từng tập tất cả các tác phẩm của Bach, Beethoven, Mozart và nhiều nhạc sĩ khác.

Ngày 26 tháng 11 năm 1820, lần đầu tiên ông ra mắt công chúng tại lâu đài của bá tước Michael Esterházy ở Pressburg trước các nhà quý tộc địa phương. Trong dịp này Liszt may mắn được đề nghị tài trợ mỗi năm 600 gulden để đi học ở nước ngoài, tuy nhiên số tiền này chỉ đủ trang trải một phần chi phí sinh hoạt cho nên sau đó Liszt vẫn không đi đâu cả. Ngày 3 tháng 6 năm 1822, Adam Liszt xin hoàng tử Esterházy được nghỉ việc một năm và cả gia đình bán hết đồ đạc để chuyển đến Viên vào ngày 8 tháng 5 năm 1822. nhỏ|275x275px|Tờ thông báo biểu diễn vở opera Don Sanche của Liszt, năm 1825 Ở Wien, Liszt theo học piano với Carl Czerny, người từng là học trò của Ludwig van Beethoven, cùng với Antonio Salieri, cựu quan đại thần âm nhạc Áo. Theo như trong hồi ký của Czerny, Liszt có năng khiếu rất rõ nhưng do học tập không tốt cho nên kĩ năng ngón tồi cũng như phong cách chơi đàn rất hỗn loạn. Hai thầy trò bất đồng nhau trong việc sử dụng các ngón tay và thế là để tránh các bài tập, Liszt đã viết các ghi chú bậy lên bản nhạc rồi nói với cha rằng đó là do thầy dạy. Nhưng sự việc bị phát giác và Liszt vẫn phải tiếp tục học với Czerny. Tuy vậy, Czerny rất yêu quý Liszt, và chính Liszt cũng vô cùng tôn trọng Czerny. Liszt nhanh chóng trở nên có tiếng trong giới âm nhạc Wien, lần trình diễn đầu tiên là tại Landständischer Saal ngày 1 tháng 12 năm 1822 với các tác phẩm của Ferdinand Hummel, Gioachino Rossini và Beethoven. Ngày 13 tháng 4 năm 1823 ông trình diễn tại Kleiner Redoutensaal với các tác phẩm của Hummel.

Mùa xuân năm 1823 là hết thời hạn nghỉ của Adam Liszt, ông xin Esterházy nghỉ thêm 2 năm nữa nhưng không được chấp thuận, vậy là Adam phải trở về. Cuối tháng 4 gia đình trở về Hungary lần cuối. Trong thời gian trước khi quay trở lại Wien, Liszt có một số buổi diễn tại Pest ngày 1 và 24 tháng 5 năm 1823, tại rạp Königliches Städtisches ngày 10 và 17 tháng 5, ngày 19 tháng 5 năm 1823 tại một buổi diễn gọi là vergnügliche Abendunterhaltung. Cuối tháng 5 năm 1823 cả gia đình Liszt trở lại Wien.

Ngày 20 tháng 9 năm 1823, gia đình Liszt rời Wien để đến Paris. Để kiếm tiền, trong chuyến đi Liszt phải trình diễn ở München, Augsburg, Stuttgart, Strasburg. Ngày 11 tháng 12 năm 1823 họ đến Paris, với nguyện vọng theo học Nhạc viện Paris. Do thời đó nhạc viện Paris có quy định là chỉ nhận sinh viên người Pháp nên Liszt không thể theo học nơi đây. Hậu quả là Adam Liszt trở thành thầy của Franz Liszt, một người thầy cực kì nghiêm khắc, gần như chuyên chế. Với cha, hàng ngày Franz Liszt học các bài tập cũng như các thang âm với máy gõ nhịp, ông cũng phải tập các bài fugue của Johann Sebastian Bach.

Tại Paris, Liszt học tiếng Pháp nhanh chóng và cũng nhanh chóng trở nên nổi tiếng sau khi có vài buổi trình diễn, ông được gọi là "Liszt bé nhỏ".

Trong các năm 1824, 1825 và 1827, ông cùng cha đến Anh, ông kiếm được rất nhiều tiền nhờ các buổi biểu diễn.

Từ năm 1824, Liszt học sáng tác cho piano với Anton Reicha và Ferdinando Paer và cũng viết được vài tác phẩm cho piano gồm concerto, sonata, nhạc thính phòng, các bản biến tấu trên chủ đề của Rossini, Gaspare Spontini. Các tác phẩm của Liszt đều theo phong cách Wien đương đại, tuy nhiên phần lớn các tác phẩm đã xuất bản đều không thành công thậm chí có người còn chỉ trích ông "chẳng có tí khả năng sáng tác nào".

Mùa xuân năm 1824, Liszt bắt đầu viết vở opera Don Sanche (hay Lâu đài tình ái) với sự giúp đỡ của Paer. Vở này được công diễn lần đầu ngày 17 tháng 10 năm 1825 ở Viện âm nhạc hoàng gia do Rodolphe Kreutzer đạo diễn và Adolphe Nourrit đóng vai Don Sanche nhưng không mang lại thành công lắm. Sau sự kiện này Liszt trở nên chán âm nhạc và có ý hướng về tôn giáo, nhưng bố ông buộc ông phải tiếp tục trình diễn.

Năm 1826 tại Marseille ông bắt đầu viết các bài tập luyện kĩ thuật ngón, dự tính là 48 bài nhưng cuối cùng Liszt chỉ viết được 12 bài xuất bản dưới tên "Etudes Op.6".

Trong mùa hè năm 1827, Lizst bị ốm, cha ông đưa ông đến Boulogne-sur-Mer dưỡng bệnh, khi ông khỏi thì cha ông lại mắc bệnh và mất ngày 28 tháng 8 năm 1827. Liszt viết một khúc tang ca ngắn trong dịp này. Liszt không bao giờ đến thăm mộ của Adam tại Bouglogne. Những năm sau này Liszt thường nhìn lại thời thơ ấu với thái độ bi quan rằng tuy ông kiếm được nhiều tiền và nổi tiếng nhưng lại chẳng được ăn học đàng hoàng.

Thời thanh niên ở Paris

trái|nhỏ|261x261px|Paris thế kỷ XIX Sau khi cha chết, Liszt trở lại Paris. Trong 5 năm sau đó ông ở với mẹ trong một căn hộ nhỏ cho đến cuối năm 1833 ông ra ở riêng.

Để kiếm sống, Liszt dạy chơi piano và dạy sáng tác. Một trong những học trò của ông là Caroline de Saint-Cricq, con của bộ trưởng thương mại Pháp dưới triều vua Charles X của Pháp. Hai người yêu nhau và mẹ của Caroline cũng đồng tình cho kết hôn; tuy nhiên đến tháng 7 năm 1829 thì người mẹ chết và người cha buộc hai người chia tay. Caroline phát ốm, còn Liszt bị sốc nặng. Năm 1830, Caroline lấy Bertrand d'Artigaux và cùng chồng chuyển đến miền nam Pháp. Mối tình đầu của Liszt tan vỡ.

Ngày 25 tháng 12 năm 1828 Liszt tự tổ chức một buổi diễn của riêng mình, nhương không may kế hoạch biểu diễn phải bỏ dở vì Liszt bị bệnh sởi. Ngày 25 tháng 3 năm 1829 ông tham gia dàn nhạc 12 người biểu diễn bản overture Die Zauberflöte của Mozart. Mùa đông 1829-1830 ông trình diễn một vài lần nữa.

Tháng 7 năm 1830 Cách mạng Pháp lan đến Paris, ảnh hưởng bởi sự kiện này, Liszt sáng tác bản giao hưởng Cách mạng. Cuối cùng cách mạng chẳng thu được kết quả gì tốt hơn thậm chí làm cho tình hình xã hội trở nên tệ hơn, Liszt chán nản và bản giao hưởng chẳng bao giờ được trình diễn

Paganini

nhỏ|Paganini, người đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho Liszt, giúp cho Liszt từ một nghệ sĩ đàn gần như vô danh trở thành một Pianist lớn của nhân loại Sau khi tham dự một buổi hòa nhạc từ thiện từ ngày 20 tháng 4 năm 1832 cho các nạn nhân của một bệnh dịch tả ở Paris do Niccolò Paganini tổ chức, Liszt đã quyết tâm trở thành một bậc thầy về piano khi thấy Paganini chơi violin. Paris vào những năm 1830 đã trở thành trung tâm với các hoạt động nghệ thuật biểu diễn, với hàng chục nghệ sĩ piano khổ luyện trên mặt phím. Một số, chẳng hạn như Sigismond Thalberg và Alexander Dreyschock, tập trung vào những khía cạnh cụ thể của kỹ thuật (ví dụ như "hiệu ứng ba tay" và các quãng tám liên tục,..). Mặc dù một số người gọi trường phái chơi đàn dương cầm này là "đu dây bay", thế hệ này cũng đã giải quyết được một số vấn đề nan giải của kỹ thuật dương cầm, nâng cao trình độ chung của các buổi biểu diễn đến những tầng cao chưa được biết đến trước đây. Sức mạnh và khả năng của Liszt nổi bật trong phường hội này là nắm vững tất cả các khía cạnh của kỹ thuật piano mà các đối thủ của anh đã dày công xây dựng. Liszt cũng chính là người đi tiên phong trong phong trào này.

Các tác phẩm viết cho violin của Paganini cũng đã truyền cảm hứng mạnh mẽ đến Liszt. Liszt đã chuyển soạn một số tác phẩm của Paganini cho Piano, tiêu biểu là Khúc luyện chính từ Paganini với nhiều phiên bản, gồm nhiều khúc luyện về kĩ thuật rất khó.

Năm 1833 ông đã thực hiện chuyển thể của một số tác phẩm của Berlioz, bao gồm Symphonie fantastique (Bản giao hưởng kỳ ảo). Động lực chính của anh trong việc làm như vậy, đặc biệt với Symphonie, là giúp Berlioz - bạn thân của Liszt ở Paris và đang trong cảnh túng quẫn. Bản giao hưởng của Berlioz vẫn chưa được biết đến và chưa được xuất bản. Liszt chịu chi phí cho việc xuất bản các bản sao và chơi nó nhiều lần để giúp phổ biến bản nhạc gốc.

Liszt cũng có một tình bạn với một nhà soạn nhạc đã ảnh hưởng đến anh, Frédéric Chopin; dưới ảnh hưởng của Chopin, Liszt đã phát triển thêm tính thơ và lãng mạn. Hai người vừa là bạn, vừa là đối thủ trên các sân khấu, Chopin và Liszt đã nhiều lần cùng nhau biểu diễn. Tuy là vậy, họ ngưỡng mộ và tôn trọng nhau. Tập Etudes Op.10 nổi tiếng của Chopin đã được đề tặng cho Liszt - người được cho là đã vùa nhìn bản nhạc, vừa chơi cả tập này - điều gần như không thể. Khi hay tin Chopin vừa qua đời năm 1849, Liszt đã vô cùng tiếc nuối.

Bá tước Marie d'Agoult

trái|nhỏ|214x214px|Marie d’Agoult vẽ bởi Henri Lehmann Năm 1833, Liszt bắt đầu mối quan hệ của mình với Bá tước Phu nhân Marie d'Agoult, một người đã có chồng con khi anh gặp nàng ở một salon, tuy Marie lớn tuổi hơn Liszt. Ngoài ra, vào cuối tháng 4 năm 1834 ông đã làm quen với Felicité de (vùng) Lamennais. Dưới ảnh hưởng của cả hai, những cảm hứng sáng tạo của Liszt đã bùng nổ.

Năm 1835, nữ bá tước rời khỏi chồng và gia đình để sống với Liszt ở Geneva; Con gái đầu của Liszt với nữ bá tước, Blandine, sinh ra vào ngày 18 tháng 12. Liszt đã đóng góp các bài tiểu luận cho Paris Revue et Gazette musicale (Tạp chí âm nhạc Paris). Trong những bài tiểu luận này, ông tranh luận về việc nâng cao địa vị người nghệ sĩ từ một người đầy tớ đến một thành viên đáng kính của cộng đồng.

Trong bốn năm tiếp theo, Liszt và bà phu nhân sống cùng nhau. Họ đi du lịch cùng nhau chủ yếu ở Thụy Sĩ và Italy, nơi con gái họ, Cosima, sinh ra ở Como, đôi khi họ đến thăm Paris. Vào ngày 9 tháng 5 năm 1839, con trai duy nhất của họ, Daniel, được sinh ra, nhưng mùa năm đó thu mối quan hệ giữa họ trở nên căng thẳng. Nguyên nhân có thể do vấn đề tài chính: họ có thói quen tiêu xài khá phung phí. Liszt phải nuôi người tình Marie, các con của mình và cả mẹ Anna bằng mười ngón trên bàn tay anh. Một thời gian sau, Liszt nghe nói rằng kế hoạch cho một đài kỉ Beethoven ở Bonn có nguy cơ sụp đổ vì thiếu vốn, và cam kết hỗ trợ của ông. Như vậy có nghĩa là trở lại cuộc đời của một nghệ sĩ đi lưu diễn. Marie trở về Paris với các em, trong khi đó Liszt đã đặt 6 buổi hòa nhạc tại Vienna. Một chương mới của cuộc đời Liszt mở ra. Anh đã cắt đứt quan hệ với Marie, bắt đầu đi lưu diễn khắp toàn Châu Âu.

Lưu diễn ở châu Âu

trái|nhỏ|279x279px|Bức ảnh chụp sớm nhất được biết của Liszt, 1843 Đây là thời kỳ rực rỡ nhất của Liszt với tư cách là nghệ sỹ piano hòa nhạc. Anh đạt đỉnh cao danh vọng và luôn gặp những lời xu nịnh bất cứ nơi nào anh trình diễn

Vào ngày 14 tháng 3 năm 1842, Liszt nhận được bằng tiến sĩ danh dự của '_Đại học Königsberg -_ một vinh dự chưa từng có vào thời đó và đặc biệt quan trọng đối nếu nhìn theo truyền thống Đức. Liszt không bao giờ sử dụng danh xưngTiến sĩ Liszt 'hoặc' Tiến sĩ Franz Liszt 'công khai. Ferdinand Hiller, một đối thủ của Liszt thời bấy giờ, được cho là ghen tị vì quyết định của trường đại học.

Thêm vào danh tiếng của ông là một thực tế là Liszt đã bỏ hầu hết số tiền thu được vào hoạt động từ thiện và nhân đạo. Trên thực tế, Liszt đã kiếm được rất nhiều tiền từ khoảng bốn mươi tuổi đến mức hầu như tất cả các khoản tiền có được sau năm 1857 đã đi từ thiện. Trong khi các đóng góp của ông về tượng đài Beethoven và Nhạc viện Quốc gia Hungary là nổi tiếng, ông cũng hào phóng trao tặng quỹ xây dựng Nhà thờ Cologne, thành lập một trường trung học ở Dortmund, và xây dựng Nhà thờ Leopold ở Pest. Ông cũng có những khoản đóng góp cá nhân cho các bệnh viện, trường học và các tổ chức từ thiện như Quỹ Lương hưu của hội nhạc sĩ Leipzig. Khi ông biết đến Đại hỏa hoạn Hamburg, nổ ra trong ba ngày trong tháng 5 năm 1842 và phá huỷ phần lớn thành phố, ông đã tổ chức các buổi hòa nhạc để trợ giúp cho hàng ngàn người vô gia cư ở đó.

Liszt ở Weimar

trái|nhỏ|300x300px|Richard Wagner - nhà soạn nhạc tài năng, người bạn thân thiết, và sau này là con rể của ông Tháng 2 năm 1847, Liszt chơi tại Kiev. Ở đó, ông đã gặp Công chúa người Ba Lan Carolyne zu Sayn-Wittgenstein, có lẽ là một trong những người quan trọng nhất trong suốt phần đời còn lại của Liszt. Cô đã thuyết phục ông tập trung vào việc sáng tác, điều đó có nghĩa là từ bỏ nghề nghiệp của mình như là một nghệ sỹ lưu diễn nay đây mai đó. Sau chuyến lưu diễn vùng Balkans, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga vào mùa hè năm đó, Liszt biểu diễn buổi hòa nhạc cuối cùng tại Yelisavetgrad vào tháng Chín.Ông đã dành cả mùa đông với công chúa tại mảnh đất của mình ở Woronince "Tôi đã nghĩ kỹ rồi và tôi thấy rằng mình chỉ như một nhạc sĩ đáng khinh, trong khi bạn [Liszt], như tôi bây giờ đã tự thuyết phục bản thân, là nhạc sĩ vĩ đại nhất của mọi thời đại. "

Công chúa Carolyne đã sống cùng Liszt trong những năm tháng ở Weimar. Cuối cùng, cô đã muốn được kết hôn với Liszt, nhưng cô lại có chồng, sĩ quan quân đội Nga, Hoàng tử Nikolaus zu Sayn-Wittgenstein-Ludwigsburg (1812-1864), lúc này vẫn còn sống, vậy là cô phải thuyết phục Giới thẩm quyền Công giáo La Mã rằng hôn nhân của cô với ông ta đã không hợp lệ. Sau những nỗ lực to lớn và những quá trình phức tạp đượm phần kỳ quặc, cô đã "tạm thời" thành công (tháng 9 năm 1860). Kế hoạch là cặp vợ chồng sẽ cưới nhau tại Rome vào ngày 22 tháng 10 năm 1861, sinh nhật thứ 50 của Liszt. Mặc dù Liszt đã đến Rome vào ngày 21 tháng 10, nhưng công chúa từ chối cưới ông vào tối hôm đó. Có vẻ như cả chồng lẫn Sa hoàng Nga đã nỗ lực để phế quyền cho cuộc hôn nhân tại Vatican. Chính phủ Nga cũng tịch thu một số căn nhà của công chúa ở Ba Lan, khiến các cuộc hôn nhân sau này của bà trở nên gần như bất khả thi.

Rome, Weimar, Budapest

trái|nhỏ|Liszt năm 1858, ảnh chụp của Franz Hanfstaengl Những năm 1860 là một những năm buồn thảm nhất trong cuộc sống riêng tư của Liszt. Vào ngày 13 tháng 12 năm 1859, con trai Daniel, 20 tuổi, đã qua đời. 3 năm sau, đứa con gái 26 tuổi Blandine của ông cũng nối gót. Trong thư gửi cho bạn bè, Liszt thông báo rằng anh ta sẽ rút lui để sống một mình, đơn độc. Ông đã tìm thấy cuộc sống như vậy tại tu viện Madonna del Rosario, ngay bên ngoài Rome. Ngày 20 tháng 6 năm 1863, ông sống trong chỉ một-phần-tư ở một căn hộ nhỏ kiến trúc kiểu Sparta. Ngày 23 tháng 6 năm 1857, ông đã gia nhập Dòng Thứ ba của Thánh Phanxicô.

Vào ngày 25 tháng 4 năm 1865, ông được làm Lễ cạo đầu dưới bàn tay của Hồng y Hohenlohe. Vào ngày 31 tháng 7 năm 1865, ông nhận được bốn thánh chức nhỏ đó là 1. Chức giữ và mở cửa nhà thờ (Porter), Chức đọc Sách Thánh (Reader), Chức trừ quỷ (Exorcist), Chức Giúp Lễ (Acolyte). Sau khi thọ giới, ngài thường được gọi là Abbé Liszt. Vào ngày 14 tháng 8 năm 1879, ông được phong làm thầy dòng danh dự của vùng Albano.

Trong một số dịp, Liszt tham gia vào nhịp sống âm nhạc ở Rome. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1863, tại một buổi hòa nhạc tại Palazzo Altieri, ông đã chỉ huy một chương trình âm nhạc thánh. Bản Chân Phước"Seligkeiten" của Christus-Oratorio và Cantico del Sol di Francesco d'Assisi cũng như Sự sáng thế"Die Schöpfung" của Haydn và các tác phẩm của J. S. Bach, Beethoven, Jommelli, Mendelssohn và Palestrina đã được trình diễn. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1866, Liszt chỉ huy cho bản "Stabat mater" (một bản hùng ca về sự khổ hạnh về Đức mẹ Maria bị đóng đinh lên cây thánh giá) của Christus-Oratorio, và vào ngày 26 tháng 2 năm 1866, "Giao hưởng Thần khúc"Dante Symphony của ông. Cũng còn nhiều lần ông xuất hiện kiểu như vậy, nhưng so với thời gian lưu lại của Liszt ở Rome, chúng là không đáng kể. nhỏ|255x255px|Liszt biểu diễn cho hoàng đế Franz Joseph I trên cây đàn Bosendorfer, loại đàn thường có 92 - 97 phím thay vì chuẩn 88 Năm 1866, Liszt sáng tác Missa coronationalis (Lễ đăng quang trong Thánh lễ Misa) cho Franz Joseph và Elisabeth của vùng Bavaria. Bản "Thánh lễ Misa" được biểu diễn lần đầu tiên vào ngày 8 tháng 6 năm 1867, tại lễ đăng quang của nhà thờ Matthias bởi Buda Castle theo hình thức sáu phần. Sau buổi biểu diễn đầu tiên, phần "Ca tiến lễ" Offertory đã được bổ sung, và hai năm sau đó là phần "Ca tiến cấp" **Gradual**.

Liszt được mời trở lại Weimar vào năm 1869 để dạy các lớp bậc thầy trong việc chơi piano. Hai năm sau, ông được yêu cầu dạy tương tự tại Budapest tại Học viện Âm nhạc Hung-ga-ri. Từ đó cho tới khi kết thúc cuộc đời, ông đã thực hiện những chuyến đi thường xuyên giữa 3 thành phố Rome, Weimar và Budapest, tiếp tục cái mà ông gọi là "vie trifurquée" hoặc cuộc-sống-chia-ba. Người ta ước tính rằng Liszt đi ít nhất 4.000 dặm một năm trong giai đoạn này trong cuộc sống - một thành tích đáng nể vì tuổi giả của ông và sự khắc nghiệt của đường bộ và đường sắt trong những năm 1870.

Nhạc viện Hoàng gia Budapest

Từ đầu thập niên 1860 đã có những nỗ lực để có được một chỗ đứng cho Liszt ở Hungary. Vào năm 1871, Thủ tướng Hungary Gyula Andrássy đã viết một kiến nghị vào ngày 4 tháng 6 năm 1871 đệ lên nhà vua Hungary (Hoàng đế Áo Franz Joseph I), yêu cầu một khoản trợ cấp hàng năm là 4.000 Gulden và phong chức "Nghị sĩ Hoàng gia" "Königlicher Rat" dành cho Liszt, người sẽ quay ở lại vĩnh viễn ở Budapest, chỉ đạo dàn nhạc của Nhà hát Quốc gia cũng như các học viện Âm nhạc nhỏ|341x341px|Học viện Âm nhạc Hoàng gia Liszt Frenc ở Budapest Kế hoạch thành lập Học viện Hoàng gia đã được Nghị viện Hungary thông qua vào năm 1872. Tháng 3 năm 1875 Liszt được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng. Học viện chính thức khai giảng vào ngày 14 tháng 11 năm 1875 cùng với đồng nghiệp của Liszt là Ferenc Erkel làm quản lý, Kornél ÁbrányiRobert Volkmann. Liszt đích thân đến vào tháng 3 năm 1876 để giảng một số bài học và tổ chức buổi hòa nhạc từ thiện. trái|nhỏ|260x260px|Một trong những chiếc đàn của Liszt trong căn hộ ở Budapest Mặc dù Liszt đã được chỉ định là "Königlicher Rat", nhưng ông cũng không chỉ huy dàn nhạc của Nhà hát Quốc gia và thực ra cũng không định cư lâu dài ở Hungary. Thông thường, ông sẽ đến vào giữa mùa đông ở Budapest. Sau khi một hoặc hai buổi hòa nhạc biểu diễn bởi sinh viên của mình vào đầu mùa xuân, ông rời đi. Ông không bao giờ tham gia vào các kỳ thi cuối cùng, được tổ chức vào mùa hè mỗi năm. Một số sinh viên tham gia các bài học mà Liszt đã giảng vào mùa hè ở Weimar.

Năm 1873, nhân dịp kỷ niệm 50 năm hoạt động nghệ thuật của Liszt, thành phố Budapest đã quyết định thành lập một "Franz Liszt Stiftung" (Quỹ Franz Liszt), trợ cấp 200 Gulden cho ba sinh viên của Học viện đã có những màn biểu diễn xuất sắc dành cho âm nhạc Hungary. Chỉ có Liszt quyết định trao các khoản trợ cấp này.

Một thói quen của Liszt là tuyên bố tất cả các sinh viên tham gia các bài học của mình như là sinh viên tư của riêng ông. Do đó, hầu như không ai trong số họ trả bất kỳ khoản học phí cho Học viện. Một sắc lệnh của bộ trưởng ngày 13 tháng 2 năm 1884 đã quy định rằng tất cả những người tham gia vào bài học của Liszt đều phải trả một khoản phí hàng năm là 30 Gulden. Thực ra, chính Học viện mới là lãi nhất, vì Liszt luôn dành tặng khoản thu này các công việc từ thiện.

Những năm cuối đời

trái|nhỏ|Mặt nạ người chết của Liszt, mặt nạ người chết được làm rất đặc biệt để giữ lại gương mặt người đã khuất

Liszt ngã xuống cầu thang một khách sạn ở Weimar vào ngày 2 tháng 7 năm 1881. Mặc dù bạn bè và đồng nghiệp đã nhận thấy sưng chân và chân khi Liszt đến Weimar tháng trước (một dấu hiệu của suy tim và sung huyết có thể xảy ra), ông vẫn có sức khoẻ khá tốt trước thời điểm đó và vẫn sinh hoạt bình thường. Tuy nhiên, Liszt bị liệt toàn thân tám tuần sau khi tai nạn và không bao giờ hồi phục hoàn toàn các chấn thương. Lúc này, bệnh tật của ông cũng bắt đầu "lộ nguyên hình" - chứng phù nề, hen suyễn, mất ngủ, đục thủy tinh thể mắt trái và bệnh tim - những thứ đã góp phần vào cái chết của Liszt. Ông ngày càng trở nên ám ảnh bởi cảm giác hoang vu, tuyệt vọng và lo lắng về cái chết - có thể đang đến, các tác phẩm của ông thời kỳ này phản ánh rất rõ những cảm xúc rối loạn (có thể kể đến như Csardas Macebre). Ông đã nói với Lina Ramann - người viết tiểu sử của ông: "Tôi mang một nỗi buồn sâu sắc của trái tim, thứ mà nhất định sẽ vỡ thành các âm thanh."

Franz Liszt mất ngày 31 tháng 7 năm 1886 do biến chứng nặng nề của viêm phổi, thọ 75 tuổi. Cái chết của Liszt đã để lại niềm thương tiếc rất lớn đối với toàn bộ nghệ sĩ piano trên toàn thế giới.

Phong cách sáng tác & những tác phẩm tiêu biểu

right|thumb|Một khúc nhạc từ Hungarian Rhapsody số 2Franz Liszt là một tài năng hiếm có trong lịch sử nhân loại. Các tác phẩm của ông có nhiều nét khác biệt qua từng giai đoạn của cuộc đời:

  • Những tác phẩm được viết khi Liszt còn nhỏ thường có giai điệu nhẹ nhàng, chịu ảnh hưởng khá lớn từ các nhạc sĩ đi trước, tiêu biểu như bộ đôi Rondo và Allergo di Bravura, Etudes Op.6,...

  • Những tác phẩm của Liszt khi ông đang là một nghệ sĩ biểu diễn thường vô cùng khó, gồm các quãng tám liên tục, các trill và tremolo, những bước nhảy xa giữa các phím, kết hợp với hiệu ứng ba tay (gồm các arpeggio chơi liên tục khiến người nghe tưởng rằng có đến 3 tay đang chơi đàn). Ông cũng chuyển soạn nhiều tác phẩm cho dàn nhạc sang piano và tự viết lên những khúc Fantasies, Reminiscences trên giai điệu chính (theme) của tác phẩm đó. Tiêu biểu là Reminiscences de Norma từ opera của Bellini, Reminiscences de Don Juan từ "Don Giovanni" của Mozart, Waltz trên chủ đề từ vở opera "Faust" của Gounod,...

  • Các tác phẩm được viết sau khi ông từ bỏ danh hiệu "nghệ sĩ hòa nhạc" thường có cấu trúc đồ sộ, truyền cảm hứng cho thế hệ sau như Debussy, Tchaikovsky,... Tuy vậy, các tác phẩm lúc cuối đời của ông thường mang sắc thái buồn, ghê rợn, liên tưởng đến cái chết, Có thể kể đến như 19 bản Hungarian Rhapsody, Điệu nhảy tử thần "Totentanz", 2 vở giao hưởng lớn "Dante" và "Faust" cùng 12 bản giao hưởng thơ, các điệu Csardas, các bài hợp xướng, thánh ca,...

Franz Liszt đã sáng tác hơn 700 tác phẩm trong suốt cuộc đời của ông. Ông được đánh giá là một trong những nghệ sĩ lớn nhất mọi thời đại.

Nhạc cụ

Franz Liszt được biết đã sử dụng cây đàn piano Boisselot trong chuyến lưu diễn ở Bồ Đào Nha của mình và sau đó ở Kiev và Odessa vào năm 1847. Liszt đã giữ cây đàn Boisselot này của mình tại dinh thự Villa Altenburg của ông ở Weimar. Nhà soạn nhạc bày tỏ sự yêu thích của mình đối với cây đàn này trong lá thư gửi Xavier Boisselot vào năm 1862: “Mặc dù các phím đàn gần như bị bào mòn bởi những trận chiến của âm nhạc trong quá khứ, hiện tại và tương lai, tôi sẽ không bao giờ đồng ý thay đổi nó và quyết tâm giữ chiếc đàn này cho đến ngày cuối đời, như một người cộng sự đắc lực của tôi.” Cây đàn này hiện đang trong tình trạng không thể chơi được. Vào năm 2011, theo đơn đặt hàng của Klassik Stiftung Weimar, nhà chế tác piano đương thời Paul McNulty đã tạo ra một bản sao cây đàn piano Boisselot của Liszt. Bản sao này hiện đang được trưng bày cùng bản gốc. Trong số những cây đàn piano của Liszt ở Weimar còn có cây đàn Erard, cây “piano-organ” của Alexandre, cây đàn Bechstein và Broadwood của Beethoven.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|302x302px|Ảnh Liszt của Nadal, năm 1886, 4 tháng trước khi ông mất **Franz Liszt** (; ; 22 tháng 10 năm 1811 - 31 tháng 7 năm 1886) là một nghệ sĩ piano và nhà soạn
**Học viện Âm nhạc** **Liszt Ferenc** (, thường được viết tắt là _Zeneakadémia_, "Học viện Liszt") là một trường đại học âm nhạc và phòng hòa nhạc ở Budapest, Hungary, được thành lập vào ngày
**Franz Peter Schubert** (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, chín bản giao hưởng trong đó có bản
phải|nhỏ|300x300px|Hai nốt tô đỏ cách nhau 35 nửa cung, tương đương 46cm trên bàn phím."**La campanella**" (Liszt) là tên thường gọi một nhạc phẩm dành cho dương cầm của Franz Liszt. Tên gọi này để
**Rhapsody Hungary** là bộ 19 tác phẩm của nhà soạn nhạc người Hungary Franz Liszt. Liszt đã viết các tác phẩm này trong khoảng thời gian từ năm 1846-1885. Trong số này có 12 bản
**Rhapsody Tây Ban Nha** là tác phẩm viết cho piano của nhà soạn nhạc người Hungary Franz Liszt. Liszt viết tác phẩm này vào năm 1863, sau đó tác phẩm này được Ferruccio Busoni chuyển
nhỏ|Schubert năm 1827 - Chân dung của Anton Depauly.|141x141px **Fantasia in F minor** (_khúc kỳ ảo giọng Fa thứ_) là tên bằng tiếng Áo một nhạc phẩm của Franz Schubert, là một trong những kiệt
**Frédéric François Chopin** (tên khai sinh là **Fryderyk Franciszek Szopen**; 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời
nhỏ|[[Franz Liszt|F. Liszt (ảnh của Louis Held).|157x157px]] **Khúc luyện chính từ Paganini** gồm sáu bài tập dành cho dương cầm, do Franz Liszt biên soạn, được ông công bố lần đầu vào năm 1838 dưới
**Charles-Valentin Alkan** (30 tháng 11 năm 1813 - 29 tháng 3 năm 1888) là một nhà soạn nhạc và nhạc công piano người Pháp gốc Do Thái. Ông sinh ra tại Paris, Pháp. Khi qua
**Văn hóa Hungary** vô cùng đa dạng trên khắp đất nước Hungary. Nền văn hóa này bao gồm nhiều ngành nghề thủ công dân gian như thêu, đồ gốm trang trí và chạm khắc. Nền
nhỏ|Một nghệ sĩ dương cầm là nghệ sĩ chơi đàn dương cầm chuyên nghiệp. **Nghệ sĩ dương cầm** là nhạc sĩ chuyên nghiệp chơi đàn dương cầm. Một nghệ sĩ dương cầm có thể vừa
**Isaac Manuel Francisco Albéniz i Pascual** (29 tháng 5 năm 1860 - 18 tháng 5 năm 1909) là nghệ sĩ chơi piano người Tây Ban Nha đồng thời là nhà soạn nhạc nổi tiếng với
**Louis-Constantin Boisselot** (11 tháng 3 năm 1809 - 5 tháng 6 năm 1850 tại Marseille) là một nhà chế tạo piano người Pháp, sinh ra ở Montpellier. Vào tháng 11 năm 1835, ông kết hôn
**_Années de pèlerinage_** (nghĩa: **Những năm hành hương**) (S.160, S.161, S.163) là tổ khúc piano gồm ba phần sáng tác bởi Franz Liszt. Phần lớn tổ khúc sử dụng những nguyên liệu từ tác phẩm
**Gaspard-Félix Tournachon**, thường được biết đến với nghệ danh **Nadar** (6 tháng 4 năm 1820 - 21 tháng 3 năm 1910) là một nghệ sĩ và nhà du hành người Pháp. Nadar được biết tới
**Johannes Brahms** (7 tháng 5 năm 1833 tại Hamburg – 3 tháng 4 năm 1897 tại Viên) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm và chỉ huy dàn nhạc người Đức. Các tác
Bản **Sonata cho dương cầm số 2** cung Si giáng thứ, Op. 35, là một bản sonata cho dương cầm gồm bốn chương của nhà soạn nhạc người Ba Lan Frédéric Chopin. Chopin hoàn thành tác phẩm
**Giải Oscar cho nhạc phim xuất sắc nhất** là một trong các giải Oscar được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh trao tặng hàng năm cho nhạc viết riêng cho một
**Maximiliano I của México** (tiếng Đức: _Ferdinand Maximilian Joseph Maria von Habsburg-Lothringen_; tiếng Tây Ban Nha: _Fernando Maximiliano José María de Habsburgo-Lorena_; 6 tháng 7 năm 1832 - 19 tháng 6 năm 1867) là một
**Budapest** () là thủ đô và thành phố đông dân nhất của Hungary, và một trong những thành phố lớn nhất trong Liên minh Châu Âu. Với dân số ước tính năm 2016 là 1.752.704
**Georges Bizet** (25 tháng 10 năm 1838 - 3 tháng 6 năm 1875) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano nổi tiếng người Pháp, người được biết đến với vở opera nổi tiếng Carmen,
**Katica Illényi** (, tên Hungary: **Illényi Katica**) là viện sĩ Viện hàn lâm nghệ thuật Hungary, nữ nghệ sĩ vĩ cầm xuất sắc đương đại của Hungary. Đóng góp của bà cho âm nhạc và
**Alfred Brendel** (tiếng Anh: /ˈælfrəd ˈbrɛndəl/, 5 tháng 1 năm 1931 – 17 tháng 6 năm 2025) là một nghệ sĩ dương cầm, nhà thơ, nhà sáng tác, giảng viên âm nhạc người Áo. Ông
**Étude**, còn được hiểu nôm na là "khúc luyện", trong âm nhạc, nó là một bản nhạc ngắn để người chơi luyện tập. Một nhạc công trong đời trung bình phải tập khoảng từ 200
**Lenfilm** (tiếng Nga: _Ленфильм_), hoặc **Lenfilm Studio** (tiếng Nga: _Киностудия Ленфильм_) là một trong những hãng phim lớn, lâu đời nhất Liên Xô (trước đây) và nước Nga (hiện nay). ## Lịch sử hình thành
**Đại lộ Andrássy** () là một đại lộ có lịch sử từ năm 1872 nằm tại thủ đô Budapest, Hungary. Nó kéo dài từ Quảng trường Erzsébet đến Công viên thành phố Budapest. Hai bên
**Rê giáng trưởng** là một cung trưởng không mấy thông dụng với hóa biểu 5 dấu giáng. Thứ tự các nốt lần lượt là: Rê giáng, Fa, Sol giáng, La giáng, Si giáng và Đô.
**Bedřich Smetana** () là nhà soạn nhạc Séc sinh ngày 2 tháng 3 năm 1824 tại Litomyšl vùng Bohemia (hồi đó thuộc Áo-Hung, bây giờ thuộc Cộng hòa Séc) và mất ngày 12 tháng 5
**Charles-Camille Saint-Saëns** (; sinh 9 tháng 10 năm 1835 tại Paris, mất 16 tháng 12 năm 1921 tại Algiers), còn được biết đến với bút danh Sannois, là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano,
nhỏ | phải | Franz Schubert Bản **Serenade** (tiếng Đức: _Ständchen_) là nhạc khúc thứ tư trong quyển 1 của bộ _Schwanengesang_ (_Bài ca thiên nga_) của Franz Schubert. Tuyển tập bài hát này được
phải|nhỏ|Carl Maria von Weber **Carl Maria Fridrich Ernst von Weber** (18-19 tháng 11 năm 1786 - 4-5 tháng 1826) là một nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ dương cầm, nghệ sĩ ghi ta và
**Clara Josephine Schumann** (; nhũ danh **Wieck**; 13 tháng 9 năm 1819 – 20 tháng 5 năm 1896) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ và giáo viên piano người Đức. Ngoài việc được coi
thumb|Conrad Graf (Bản [[In thạch bản của Josef Kriehuber, 1830)]] **Conrad Graf** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1782 tại Riedlingen, Áo - mất ngày 18 tháng 3 năm 1851 tại Viên) là một nhà
**Khatia Buniatishvili** (, ), là nghệ sĩ dương cầm người Pháp gốc Gruzia. Cô chuyên về biểu diễn nhạc cổ điển, thường thuộc thể loại hòa tấu với dàn nhạc giao hưởng. Khatia nổi tiếng
**Anastasia Huppmann** (tên tiếng Nga: Анастасия Хуппманн, phiên âm tiếng Việt: /a-nas-ta-xia khup-man/, tiếng Anh: /ænəˈsteɪʒə hʌpmæn/) là một nghệ sĩ dương cầm người Áo gốc Nga, thường được nhắc đến nhờ những biểu diễn
**Victor-Marie Hugo** (; (26 tháng 2, 1802 - 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một chính trị gia, thi sĩ, nhà văn, và kịch gia thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
**Carl Czerny** (gọi ngắn gọn là **Karl**; 21 tháng 2 năm 1791 - 15 tháng 7 năm 1857) là một nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc và giáo viên piano người Áo. Ông được
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Mendelssohn_Bartholdy.jpg|thế=|nhỏ|301x301px|Chân dung Mendelssohn bởi họa sĩ [[James Warren Childe, vẽ năm 1839.]] **Jakob Ludwig Felix Mendelssohn Bartholdy **(3 tháng 2 năm 1809 - 4 tháng 11 năm 1847), sinh ra và được biết đến rộng
Trang đầu tiên của Giao hưởng hoang tưởng do Berlioz viết|nhỏ|phải **Symphonie fantastique**, Op.14 (tiếng Việt: **Giao hưởng cuồng tưởng** hoặc **Giao hưởng hoang tưởng**) là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà soạn nhạc
nhỏ|phải **Ignaz Moscheles** (1794-1870) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano, nhà sư phạm người Séc. Ông là một trong những nhà soạn nhạc sống trong sự chuyển giao giữa âm nhạc Cổ điển
**Aleksandr Porfiryevich Borodin** (, 1833-1887) là nhà hóa học, nhà soạn nhạc, tiến sĩ y khoa, nhà hoạt động xã hội người Nga. ông là một trong những thành viên của Nhóm nhạc Năm người
là một series manga Nhật Bản được viết bởi Shirodaira Kyo và minh họa bởi Mizuno Eita. Bộ manga được xuất bản bởi Enix và sau đó là Square Enix trên tạp chí _Monthly Shōnen
**Aleksandr Konstantinovich Glazunov** (tiếng Nga: **Александр Константинович Глазунов**) (1865-1936) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà sư phạm người Nga. ## Cuộc đời và sự nghiệp Aleksandr Glazunov là học trò của Nikolay Rimsky-Korsakov. Năm
**Giao hưởng số 3, cung Đô thứ , Op. 78** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Pháp Camille Saint-Saëns, nổi tiếng với tên gọi "Giao hưởng Organ", dù đây không thực sự
**Edward Alexander MacDowell** (1860-1908) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano, nhà sư phạm người Mỹ. ## Tiểu sử Edward MacDowell học âm nhạc ở New York với Teresa Carenno, sau đó sang châu
nhỏ|phải **Die Walküre, WWV 86** là vở opera 3 màn của nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner. Lời và nhạc của tác phẩm đều do ông viết. Đây là phần thứ hai trong bộ
**Si thứ** (viết tắt là **Bm**), còn được gọi là **Đô giáng thứ** (viết tắt là **C♭m**) là một âm giai thứ dựa trên nốt **Si** (tức **Đô giáng**), bao gồm các nốt **Si** (**B**),
nhỏ|Vũ điệu Csárdás|280x280px nhỏ|258x258px| [[Điệu|Nhịp điệu của Csárdás ]] **Csárdás** (phiên âm tiếng Hungary: [ˈt͡ʃaːrdaːʃ]), thường được gọi là **Czárdás**, là một điệu nhảy dân gian của Hungary. Cái tên _Csárdás_ bắt nguồn từ một
nhỏ|Jacques Offenbach **Jacques Offenbach** (20 tháng 6 năm 1819 ở Köln - 5 tháng 10 năm 1880 ở Paris) là một nhà soạn nhạc lãng mạn người Đức gốc Do Thái, một nghệ sĩ chơi