✨Franz Schubert

Franz Schubert

Franz Peter Schubert (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, chín bản giao hưởng trong đó có bản giao hưởng nổi tiếng "Unfinished Symphony" cùng các thể loại nhạc nghi lễ, nhạc thính phòng và solo piano. Ông được biết đến với các tác phẩm có giai điệu nhẹ nhàng và du dương.

Dù Schubert có khá nhiều người bạn ngưỡng mộ các nhạc phẩm của ông (như thầy giáo của ông Antonio Salieri, và ca sĩ nổi tiếng Johann Michael Vogl), tuy nhiên âm nhạc của Schubert thời đó không được thừa nhận rộng rãi nếu không muốn nói là rất hạn chế. Schubert chưa bao giờ đảm bảo được một công việc ổn định và thường xuyên phải nhờ đến sự ủng hộ của bạn bè và gia đình trong phần lớn sự nghiệp.

Schubert mất sớm, năm 31 tuổi, do hậu quả của bệnh thương hàn là thứ bệnh không chữa được thời đó. Vài thập kỷ sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn.

Ngày nay, Schubert được xếp hạng là một trong số những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của những năm cuối thời kỳ cổ điển, đầu thời kỳ lãng mạn, và các tác phẩm của ông thường xuyên được trình diễn nhiều trong những năm đầu thế kỷ 19.

Tiểu sử

Franz Peter Schubert sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Himmelpfortgrund (nay thuộc Alsergrund), Viên, thủ đô nước Áo. Cha ông là Franz Theodor Schubert - con của một nông dân vùng Moravia- là thầy giáo nổi tiếng trong giáo khu. Mẹ ông là con của một người sửa khóa vùng Silesia, là người hầu của một gia đình giàu có trước khi lấy chồng. Tổng cộng ông có 14 anh chị em, nhưnng chỉ 5 người sống, chín người chết yểu.

Cha ông là một thày giáo nổi tiếng trong vùng, dạy ở Lichtental (huyện 9 của Vienna) nơi có đông học trò theo học. Mặc dù cha ông không phải là nhạc sĩ, ông là người dạy cho Schubert những điểm cơ bản về âm nhạc. thumb|Ngôi nhà nơi Schubert được sinh ra, ngày nay là [[Alsergrund#District sections|Nussdorfer Strasse 54]]

Schubert bắt đầu học nhạc ở nhà khi lên 6, năm sau thì chính thức ghi danh nhập học trường Lichtental nơi cha ông là giáo viên. Schubert được cha dạy kỹ thuật cơ bản đánh violin, Khi Schubert lên bảy, Michael Holzer, người chơi organ đồng thời cũng là trưởng ban hợp xướng ca của nhà thờ giáo xứ địa phương tại Lichtental nhận dạy thêm. Qua một người quen, Schubert lại được một người thợ mộc dẫn đến một kho đàn piano để Franz có thể tập đánh. Ngoài piano Schubert cũng chơi viola trong ban nhạc gia đình: họ lập ban tứ tấu đàn dây: Ferdinand và Ignaz đánh violin chính và violon nhì, cha ông đánh violoncello. Bản nhạc đầu tiên Schubert sáng tác là cho ban tứ tấu này.

Schubert đầu tiên được Antonio Salieri, nhà quản lý âm nhạc hàng đầu của Vienna, để ý đến vào năm 1804, về tài năng thanh nhạc của cậu. Với việc học hỏi các tác phẩm trên, làm quen với các tác phẩm của các nhạc sĩ khác, và thỉnh thoảng đến xem các vở opera đã tạo ra một vốn kiến thức âm nhạc rộng rãi và vững chắc cho Schubert. Tình bạn của Schubert với Spaun bắt đầu tại Stadtkonvikt và kéo dài trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của ông. Trong những ngày đầu, Spaun với tài chính khá giả đã mua nhiều giấy viết nhạc cho một Schubert nghèo khó.

Tài năng của Schubert bắt đầu thể hiện qua các sáng tác. Thỉnh thoảng Schubert được giao chỉ huy dàn nhạc, và Antonio Salieri bắt đầu đào tạo Schubert về lý thuyết âm nhạc và kĩ năng sáng tác. Đây là dàn nhạc đầu tiên Schubert viết nhạc, và anh đã dành phần lớn thời gian còn lại của mình tại Stadtkonvikt để sáng tác nhạc thính phòng, một số bài hát, các đoạn ngắn cho piano, và bản hợp xướng phụng vụ với các hợp xướng "Salve Regina" (D27), "Kyrie" (D31), và "Octet cho Winds" chưa hoàn thành (D72, để kỷ niệm cái chết của mẹ Schubert năm 1812), bản cantata Wer ist groß? cho giọng nam và dàn nhạc (D110, kỷ niệm ngày sinh nhật của cha Schubert vào năm 1813), và bản giao hưởng đầu tiên của anh (D 82).

Làm thầy giáo tại trường của cha mình

Vào cuối năm 1813, ông rời Stadtkonvikt và trở về nhà để học khoa giáo viên tại Normalhauptschule. Năm 1814, ông trở thành giáo viên của các em học sinh nhỏ tuổi nhất tại trường của cha mình. Trong hơn hai năm Schubert chịu đựng khó khăn với sự lãnh đạm hiếm thấy. Tuy nhiên, cũng có các lợi ích bù lại. Ông tiếp tục học hỏi Salieri, người đã đào tạo Schubert các kỹ thuật thực tế hơn bất kỳ các giáo viên khác của ông, trước khi họ chia tay năm 1817. năm 1814. Năm 1815 Luật kết hôn quá hà khắc với yêu cầu chú rể phải chứng minh được khả năng có thể nuôi sống gia đình. Tháng 11 năm 1816, sau khi không được nhận công việc ở Laibach (bây giờ là Ljubljana, Slovenia) ông gửi cho Heinrich - anh của Grob - một tập tác phẩm mà gia đình bà còn giữ đến đầu thế kỉ 20.

Năm 1815 là năm Schubert tập trung vào sáng tác, ông viết đến 9 tác phẩm cho nhà thờ, 140 ca khúc nghệ thuật (lieder), một bản giao hưởng.

Những năm cuối đời

Đang trong giai đoạn đỉnh cao của sự nghiệp, sức khỏe Schubert dần giảm sút. Những năm cuối thập niên 20 thế kỷ XIX, sức khỏe Schubert ngày càng đi xuống, ông đã tâm sự với một vài người bạn rằng ông sợ ông đã sắp cận kề cái chết. Giữa hè năm 1828, Schubert gặp nhà Vật Lý Ernst Rinna, có lẽ cũng chính là người đã xác nhận những nghi ngờ của Schubert về căn bệnh của mình, rằng ông đang mắc căn bệnh nan y và có khả năng sẽ chết sớm. Những triệu chứng cho thấy rằng ông bị ngộ độc thủy ngân (ngày xưa thủy ngân thường được dùng như là một bài thuốc phổ biến để trị bệnh giang mai, căn bệnh mà chính Schubert cũng đã từng mắc phải). Đầu tháng 11, ông lại bị ốm, đau đầu, sốt, sưng khớp và nôn mửa. Thậm chí ông cũng không thể ăn được thức ăn dạng rắn cũng như tình trạng ngày càng chuyển biến xấu. 5 ngày trước khi mất, bạn của ông là nghệ sĩ violin Karl Holz và nhóm tứ tấu đến thăm và chơi đàn cho ông nghe. Tác phẩm âm nhạc cuối cùng mà ông muốn nghe chính là bản String Quartet No. 14 in C-sharp minor, Op. 131 của Beethoven. Holz sau đó đã nói: "The King of Harmony has sent the King of Song a friendly bidding to the crossing".

Schubert mất tại Viên vào ngày 19 tháng 11 năm 1828, thọ 31 tuổi, ở khu căn hộ của Ferdinand, anh trai ông. Nguyên nhân chẩn đoán ông tử vong do sốt thương hàn, dù vậy vẫn có rất nhiều giả thuyết khác được đưa ra, trong đó có cả việc do bệnh giang mai của ông đã bước vào giai đoạn 3. Theo nguyện vọng của Schubert, ông đã được chôn cất gần mộ của Bethoven, người mà ông ngưỡng mộ cả đời, tại nghĩ trang làng Währing, Viên. Trước đó 1 năm ông cũng là người cầm đuốc trong lễ tang Beethoven.

Năm 1872, một đài tưởng niệm Franz Schubert đã được dựng lên ở công viên Stadtpark của Viên. Năm 1888, cả hai ngôi mộ của Schubert và Beethoven đã được chuyển đến Zentralfriedhof, nơi mà giờ đây họ có thể được thấy ngay cạnh mộ của Johann Strauss II và Johannes Brahms. Nghĩa trang Währing đã được cải tạo trở thành công viên vào năm 1925, được gọi là công viên Schubert, và vị trí mộ cũ của ông giờ đây được đánh dấu bằng một bức tượng bán thân. Văn bia của ông, được viết bởi người bạn của ông, nhà thơ Franz Grillparzer: "Die Tonkunst begrub hier einen reichen Besitz, aber noch viel schönere Hoffnungen".

Phong cách sáng tác

Giai đoạn Âm nhạc Cổ điển - Trường phái cổ điển Vienna (1730 -1820) khép lại với những tên tuổi lừng lẫy như Haydn, Mozart, Beethoven để mở ra một giai đoạn mới - giai đoạn Âm nhạc Lãng mạn (1800 - 1910) Những nhà soạn nhạc thời kì Lãng mạn thường lấy cảm hứng từ văn học, hội họa hay từ những nguồn ngoài thế giới âm nhạc. Vì vậy, âm nhạc chương trình được phát triển rất mạnh mẽ và dẫn đến sự ra đời của thể loại thơ giao hưởng.Các bài thơ trong thế kỉ 18 và 19 là cơ sở đề hình thành nên các bài hát nghệ thuật mà trong đó các nhà soạn nhạc dùng âm nhạc để khắc họa hình ảnh và tâm trạng của lời ca. Sự huy hoàng của âm nhạc lãng mạn lan toả suốt thế kỷ XIX với rất nhiều nhà soạn nhạc ưu tú như Mendelssohn, Schumann, Chopin, Liszt hay Tchaikovsky nhưng trong đó người khai phá và là "nhân vật vĩ đại" đầu tiên chính là Franz Schubert. Schubert sáng tác đủ các thể loại âm nhạc: giao hưởng, Sonat, nhạc thính phòng, bài hát. Schubert là người đầu tiên đưa bài hát đến tầm khái quát cao, đồng thời giữ được vẻ tự nhiên ban đầu của nó. Schubert trở nên bất tử qua 600 bài hát mà ông sáng tác (nên giao hưởng và opera của ông bị khuất lấp, bị rơi vào lãng quên lúc sinh thời). Sau khi Schubert qua đời, các tác phẩm của ông mới khẳng định được tên tuổi của mình, một phần nhờ công lao phổ biến của các nhạc sĩ cùng thời như Franz Liszt, Robert Schumann, Felix Mendelssohn. Schubert được coi là ánh bình minh của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc Ông được xếp vào hàng các nhà soạn nhạc vĩ đại nhất của nhân loại.

Nhạc cụ

Một số những cây đàn piano mà Schubert đã từng sử dụng là cây đàn piano Benignus Seidner (hiện được trưng bày tại Schubert Geburtshaus ở Viên) và một cây đàn piano Anton Walter & Sohn (bảo tàng Kunsthistorisches ở Viên) đồng thời Schubert cũng quen thuộc với các nhạc cụ do người chế tạo đàn piano người Viên, Conrad Graf.

Danh sách đĩa nhạc

  • Paul Badura-Skoda. Franz Schubert. Fantaisie Pour le Piano-forte. Fortepiano 1824 Graf
  • K.Bezuidenhout piano, J.Kobow voice. F.Schubert (1797-1828) : Chant du Cygne D.957 - F.Mendelssohn (1809-1847) : Six lieder sur des textes de Heinrich Heine. Fortepiano 1819 Graf (Paul McNulty)
  • Viviana Sofronitsky. F.Schubert. Wanderer Fantasy, Impromptus opp. 90 & 142. Fortepiano 1819 Graf (Paul McNulty)
  • Alexei Lubimov. Franz Schubert. Impromptus. Fortepiani 1810 Matthias Müller, 1830 Joseph Schantz
  • Andreas Staier, Alexandr Melnikov. Franz Schubert. Fantasie in F Minor. Fortepiano Graf (Christopher Clarke)
  • Penelope Crawford. Schubert, Mendelsohn, Schumann. Viennese Romantic Piano. Fortepiano 1835 Graf
  • András Schiff. Franz Schubert. C Major Fantasies. Fortepiano Franz Brodmann 1820
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|300x300px|Schubert Tác phẩm 1: "Erlkönig", D 328, phiên bản thứ tư, đã được xuất bản của [[Anton Diabelli|Diabelli như của Schubert "1phải Xem" 1821. Sự nói Dối, bao gồm trong 1815, sau đó đã được thông
**Franz Peter Schubert** (31 tháng 1 năm 1797 - 19 tháng 11 năm 1828) là một nhà soạn nhạc người Áo. Ông đã sáng tác 600 Lieder, chín bản giao hưởng trong đó có bản
nhỏ|Schubert năm 1827 - Chân dung của Anton Depauly.|141x141px **Fantasia in F minor** (_khúc kỳ ảo giọng Fa thứ_) là tên bằng tiếng Áo một nhạc phẩm của Franz Schubert, là một trong những kiệt
**3917 Franz Schubert** là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện bởi Freimut Börngen ở Tautenburg ngày 15 tháng 2 năm 1961. Nó được đặt theo tên nhạc sĩ Franz Schubert
nhỏ | phải | Franz Schubert Bản **Serenade** (tiếng Đức: _Ständchen_) là nhạc khúc thứ tư trong quyển 1 của bộ _Schwanengesang_ (_Bài ca thiên nga_) của Franz Schubert. Tuyển tập bài hát này được
nhỏ|phải|Trang đầu tổng phổ bản Ave Maria của Franz Schubert **Ave Maria** (Schubert) là tên thường gọi một bài hát được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Áo nổi tiếng Franz Schubert. Tên này
**Philipp Christian Theodor Conrad von Schubert** (29 tháng 10 năm 1847 tại Wielkibor – 21 tháng 1 năm 1924 tại Berlin) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp Trung tướng,
**Giao hưởng số 6 cung Đô trưởng, D. 589**, hay còn gọi là **Giao hưởng nhỏ** là tác phẩm của nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Franz Schubert. Ông viết tác phẩm này trong
**Giao hưởng số 9, cung Đô trưởng, D.944** hay còn được gọi là **Giao hưởng Lớn** là bản giao hưởng cuối cùng của nhà soạn nhạc bạc mệnh người Áo Franz Schubert. Ông viết tác
**Giao hưởng số 2 cung Si giáng trưởng, D. 125** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc tài hoa người Áo Franz Schubert. Schubert đã viết nó trong các năm 1814 và 1815. Bản
**Giao hưởng số 3 cung Rê trưởng, D. 200** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc đoản mệnh người Áo Franz Schubert. Tác phẩm này được viết từ ngày 24 tháng 5 đến ngày
**Giao hưởng số 1 cung Rê trưởng, D. 82** là bản giao hưởng đầu tiên của nhà soạn nhạc yểu mệnh người Áo Franz Schubert. Ông viết tác phẩm này vào năm 1813. Tác phẩm
**Giao hưởng số 7, cung Mi trưởng, D.729** là bản giao hưởng của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert. Ông phác thảo bản giao hưởng này vào năm 1821, nhưng lại không phối dàn
**Nghĩa trang trung tâm Viên** (tiếng Đức: Wiener Zentralfriedhof) là một nghĩa trang nằm ở quận Simmering thuộc thành phố Viên, Áo. Đây là nghĩa trang lớn và nổi tiếng nhất của Wien, nhiều nhân
**Frédéric François Chopin** (tên khai sinh là **Fryderyk Franciszek Szopen**; 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời
phải|nhỏ|Carl Maria von Weber **Carl Maria Fridrich Ernst von Weber** (18-19 tháng 11 năm 1786 - 4-5 tháng 1826) là một nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ dương cầm, nghệ sĩ ghi ta và
**Daniel Barenboim** (sinh năm 1942) là nghệ sĩ piano và nhạc trưởng người Israel. Ông là một trong những nhạc trưởng Israel xuất sắc nhất. ## Tiểu sử ### Thời niên thiếu Cậu bé 11
**Johann Peter Fritz** là một trong những nhà chế tạo đàn piano nổi tiếng nhất ở Viên. ## Cuộc đời Những cây đàn piano của ông được đánh giá cao vì chất lượng tốt và
**Clara Josephine Schumann** (; nhũ danh **Wieck**; 13 tháng 9 năm 1819 – 20 tháng 5 năm 1896) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ và giáo viên piano người Đức. Ngoài việc được coi
**Robert David Levin** (sinh ngày 13 tháng 10 năm 1947) là một nghệ sĩ piano cổ điển, nhà âm nhạc học và nhà soạn nhạc người Mỹ. ## Cuộc đời Sinh ra ở Brooklyn, ông
thumb|Conrad Graf (Bản [[In thạch bản của Josef Kriehuber, 1830)]] **Conrad Graf** (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1782 tại Riedlingen, Áo - mất ngày 18 tháng 3 năm 1851 tại Viên) là một nhà
**Áo**, quốc hiệu là **Cộng hòa Áo**, là một quốc gia không giáp biển nằm tại Trung Âu. Quốc gia này tiếp giáp với Cộng hòa Séc và Đức về phía bắc, Hungary và Slovakia
**Claudio Abbado** (1933 – 2014) là nhạc trưởng người Ý. Ông là một trong những vị nhạc trưởng Ý xuất sắc nhất thế kỷ XX. ## Tiểu sử ### Thời niên thiếu Claudio Abbado sinh
Trong nghệ thuật, không ít tác phẩm đã bị bỏ dở giữa chừng. Trong nhạc cổ điển cũng vậy, có khà nhiều bản giao hưởng đã không được hoàn chỉnh (đáng ra chúng được 4
Thời kỳ cổ điển trong âm nhạc phương Tây thường được chấp nhận là bắt đầu vào khoảng năm 1730 và kéo dài cho tới 1820. Tuy nhiên, thuật ngữ âm nhạc cổ điển được
**Đô trưởng** (ký hiệu là **C**), hay **Si thăng trưởng** (ký hiệu là **B**), là một cung thể trưởng dựa trên nốt Đô (C), tức Si thăng (B), bao gồm các nốt sau: **Đô** (**C**),
nhỏ|Nhạc thính phòng vào thế kỉ 17 **Âm nhạc thính phòng** có nguồn gốc từ ngôn ngữ Latinh (camera) – có nghĩa là nhạc để biểu diễn trong phạm vi không gian nhỏ (như phòng
**_Classic Meets Chillout_** là album phòng thu đầu tay của ca sĩ Phạm Thu Hà, sản xuất bởi Võ Thiện Thanh và Dream Studio, phát hành vào ngày 12 tháng 12 năm 2012 bởi Viết
**Johann Michael Vogl** (1768-1840) là nhà soạn nhạc và ca sĩ giọng nam trầm người Áo. Ông là một trong những ca sĩ opera nổi tiếng đương thời và là người trình diễn hầu hết
**Maximilian Raoul Steiner** (10 tháng 5 năm 1888 – 28 tháng 12 năm 1971) là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng người Mỹ gốc Áo. Nổi tiếng qua những bản nhạc cho các tác phẩm
**Steyr** là thành phố pháp định nằm ở bang Oberösterreich, Áo. Thành phố nằm ở ngã ba sông Steyr và sông Enns. Steyr là đô thị đông dân thứ 12 của Áo và đồng thời
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
[[Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam trong buổi hòa nhạc tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội]] **Giao hưởng** là các tác phẩm lớn trong nền âm nhạc cổ điển phương Tây, thường được
**Sol giáng trưởng** là một cung thể trưởng dựa trên nốt Son giáng, bao gồm các nốt sau **Sol giáng**, La giáng, **Si giáng**, Si, **Rê giáng**, Mi giáng, Fa và **Sol giáng**. Bộ khóa
**Giao hưởng số 9** có thể là một trong các bản giao hưởng sau: *Giao hưởng số 9 của Ludwig van Beethoven *Giao hưởng số 9 của Anton Bruckner *Giao hưởng số 9 của Antonín
**Ave Maria** là cụm từ tiếng Latinh có nghĩa là "Kính chào Maria", mở đầu **Kinh Kính Mừng**. ## Âm nhạc *"Ave Maria" (Bach/Gounod), của Charles Gounod, phỏng theo Johann Sebastian Bach *"Ave Maria" (Schubert),
"**Stairway to Heaven**" là một bài hát của ban nhạc rock người Anh Led Zeppelin, phát hành vào cuối năm 1971. Ca khúc được sáng tác bởi tay guitar của ban nhạc Jimmy Page và
**Karina Galvez** (sinh ngày 7 tháng 7 năm 1964) là một nhà thơ người Mỹ gốc Ecuador. Bà sinh ra ở Guayaquil, Ecuador, ngày 7 tháng 7 năm 1964. Bà sống ở California, Hoa Kỳ
**Sadah Shuchari** (11 tháng 12 năm 1906 - 20 tháng 5 năm 2001), còn có nghệ danh là **Sadah Schuhari**, tiếng Nga là **Сада Шухари**, là một nghệ sĩ vĩ cầm và nhà giáo dục
**Rosamunde**, tên đầy đủ là **Rosamunde, Fürstin von Zypern** (tiếng Việt: Rosamunde, công chúa của đảo Síp) là vở kịch của nhà báo, nhà thơ, nhà soạn kịch người Đức Helmina von Chézy. Âm nhạc
nhỏ|Die Forelle **Die Forelle** (op. 32 / D. 550) () là một trong những Lied nổi tiếng nhất của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert, được viết 1817 cho một giọng ca đơn và
**Si thứ** (viết tắt là **Bm**), còn được gọi là **Đô giáng thứ** (viết tắt là **C♭m**) là một âm giai thứ dựa trên nốt **Si** (tức **Đô giáng**), bao gồm các nốt **Si** (**B**),
nhỏ|Op.2 của [[Joseph Haydn - Ảnh chụp trang tổng phổ đầu của bản nhạc cũ "Sonare opus 2 n°1" của ông tại một cuộc đấu giá nghệ thuật ở Bỉ.]] **Opus** (từ nguyên gốc tiếng
**Alexander Frey** là chỉ huy dàn nhạc giao hưởng, nghệ sĩ organ, nghệ sĩ dương cầm, đàn harpsichord và nhà soạn nhạc người Mỹ. Frey đang được yêu cầu rất nhiều với tư cách là
Ngày **17 tháng 12** là ngày thứ 351 (352 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 14 ngày trong năm. ## Sự kiện *1538 – Giáo hoàng Phaolô III rút phép thông công Quốc vương
phải **Y tế công cộng** là khoa học và nghệ thuật phòng bệnh, kéo dài tuổi thọ và tăng cường sức khỏe thông qua những cố gắng có tổ chức của xã hội Sức khoẻ
nhỏ|Jacques Offenbach **Jacques Offenbach** (20 tháng 6 năm 1819 ở Köln - 5 tháng 10 năm 1880 ở Paris) là một nhà soạn nhạc lãng mạn người Đức gốc Do Thái, một nghệ sĩ chơi
**Malcolm Bilson** (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1935) là một nghệ sĩ piano và nhà âm nhạc học người Mỹ chuyên về âm nhạc thế kỷ 18 và 19. Bison sinh ra ở Los
**Antonio Salieri** (sinh ngày 18 tháng 8 năm 1750 - mất ngày 7 tháng 5 năm 1825) là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà sư phạm người Ý. Ông là một trong những nhà soạn
**Rê giáng trưởng** là một cung trưởng không mấy thông dụng với hóa biểu 5 dấu giáng. Thứ tự các nốt lần lượt là: Rê giáng, Fa, Sol giáng, La giáng, Si giáng và Đô.