✨Max Steiner
Maximilian Raoul Steiner (10 tháng 5 năm 1888 – 28 tháng 12 năm 1971) là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng người Mỹ gốc Áo. Nổi tiếng qua những bản nhạc cho các tác phẩm điện ảnh, ông là thần đồng với vở operetta đầu tiên khi mới 12 tuổi và trở thành chuyên gia toàn phần sáng tác, chuyển soạn hoặc chỉ huy khi 15 tuổi.
Steiner làm việc ở Anh, sau đó là Broadway rồi chuyển đến Hollywood năm 1929. Tại đây, ông trở thành soạn giả âm nhạc điện ảnh đầu tiên. Steiner được coi là "cha đẻ nhạc phim" khi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra truyền thống soạn nhạc cho phim, cùng với các nhà soạn nhạc Dimitri Tiomkin, Franz Waxman, Erich Wolfgang Korngold, Alfred Newman, Bernard Herrmann và Miklós Rózsa.
Steiner đã sáng tác hơn 300 nhạc nền phim cho RKO Pictures và Warner Bros., được đề cử 24 giải Oscar, giành ba giải cho các phim The Informer (1935); Now, Voyager (1942) và Since You Went Away (1944). Bên cạnh giải Oscar, một số tác phẩm nổi tiếng của Steiner là nhạc phim King Kong (1933), Little Women (1933), Jezebel (1938) và Casablanca (1942) (dù không sáng tác bản nhạc chủ đề "As Time Goes By"). Ngoài ra, Steiner còn soạn nhạc cho The Searchers (1956), A Summer Place (1959) và Cuốn theo chiều gió (1939) đứng thứ nhì trong danh sách nhạc phim Hoa Kỳ hay nhất của Viện phim Mỹ, đây cũng là nhạc phim nổi tiếng nhất của ông.
Steiner cũng là người đầu tiên nhận Giải Quả cầu vàng cho nhạc phim hay nhất với phim Life with Father. Steiner thường xuyên cộng tác với một số đạo diễn điện ảnh nổi tiếng nhất trong lịch sử như Michael Curtiz, John Ford và William Wyler; và soạn nhiều nhạc phim cùng Errol Flynn, Bette Davis, Humphrey Bogart và Fred Astaire. Nhiều bản nhạc phim của ông hiện đang là những bản thu soundtrack riêng biệt.
Tiểu sử
Thời thơ ấu (1888–1907)
nhỏ| [[Austria Classic Hotel Wien|Nơi Max Steiner chào đời tại Viên ngày nay, Praterstraße 72]] Max Steiner sinh ngày 10 tháng 5 năm 1888 tại Đế quốc Áo-Hung, là con một trong gia đình gốc Do Thái làm sân khấu và kinh doanh giàu có. Tên ông được đặt theo ông nội là Maximilian Steiner (1839–1880), người có công đầu tiên thuyết phục Johann Strauss II viết nhạc kịch đồng thời là người quản lý có tầm ảnh hưởng của nhà hát lịch sử Theater an der Wien tại Viên. Cha mẹ ông là Marie Josefine/Mirjam (Hasiba) và Gabor Steiner, người Hungary gốc Do Thái (1858-1944, sinh tại Temesvár, Vương quốc Hungary, Đế quốc Áo), làm ông bầu, quản lý triển lãm lễ hội và nhà phát minh, chịu trách nhiệm xây dựng vòng đu quay Wiener Riesenrad. Người cha khích lệ tài năng âm nhạc của Steiner ở tuổi 12 với vở operetta The Belle of New York dưới sự chỉ huy của Steiner, và tài năng của ông sớm được tác giả operetta Gustave Kerker công nhận. Steiner thường nói gia đình đã truyền cảm hứng cho khả năng âm nhạc của mình thuở ban đầu. Ngay từ khi lên 6, Steiner đã học ba hoặc bốn buổi piano một tuần nhưng thường không thích các bài học đó. Vì vậy, Steiner tự tập luyện ngẫu hứng và được cha khuyến khích tự viết nhạc cho mình. Steiner cho rằng ngẫu hứng ban đầu đã ảnh hưởng đến sở thích âm nhạc, đặc biệt là nhạc của Claude Debussy, người tiên phong "avant garde" khi ấy. Lúc nhỏ, Steiner bắt đầu sự nghiệp sáng tác với các hành khúc cho ban nhạc trung đoàn và những ca khúc chủ điểm cho show diễn của cha.
Được cha mẹ gửi vào Đại học Bách khoa Vienna nhưng Steiner tỏ ra không mấy hứng thú với các môn học sách vở. Năm 1904, Steiner đăng ký vào Học viện Âm nhạc Hoàng gia. Nhờ năng khiếu âm nhạc bẩm sinh và được Robert Fuchs và Gustav Mahler dạy riêng, Steiner hoàn thành khóa học bốn năm chỉ trong một năm, 15 tuổi giành được huy chương vàng từ học viện. Steiner học nhiều loại nhạc cụ khác nhau như dương cầm, phong cầm, vĩ cầm, đại vĩ cầm (công tra bát) và kèn trumpet. Tuy thích và chơi piano hay nhất nhưng Steiner thừa nhận tầm quan trọng khi quen với cách tấu các nhạc cụ khác. Steiner cũng tham gia các khóa hòa âm, đối âm và sáng tác. Cùng với Mahler và Fuchs, Steiner còn nhắc đến các thầy giáo Felix Weingartner và Edmund Eysler.
Bắt đầu sự nghiệp âm nhạc (1907–1914)
Âm nhạc của Edmund Eysler có ảnh hưởng ban đầu đến các sáng tác của Max Steiner. Tuy nhiên, Franz Lehár mới là một trong những người giới thiệu operetta với Steiner, ông từng quản lý ban quân nhạc cho nhà hát của cha Steiner. Năm 1907 tại Viên, Steiner thể hiện lòng ngưỡng mộ đối với Lehár khi dàn dựng vở operetta phỏng theo Die lustige Witwe (Bà quả phụ vui tính) của ông. Eysler nổi tiếng với những bản operetta dù bị Richard Traubner phê bình lời nhạc kịch libretto đơn điệu với cách thức khá đơn giản, âm nhạc thường quá đậm chất valse thành Viên. Kết quả là khi bắt đầu sáng tác cho nhà hát, Steiner thích viết libretto như thầy mình và thu được rất ít thành công. Tuy nhiên, nhiều nhạc phim về sau của ông như Dark Victory (1939), In This Our Life (1941) và Now, Voyager (1942) thường có giai điệu valse theo kiểu Eysler. Theo tác giả cuốn sách Max Steiner's "Now, Voyager" là Kate Daubney, Steiner cũng có thể bị ảnh hưởng từ Felix Weingartner, người chỉ huy dàn nhạc Nhà hát Opera Viên giai đoạn 1908–1911. Tuy theo học các lớp sáng tác của Weingartner nhưng ngay từ khi còn bé, Steiner luôn muốn trở thành một nhạc trưởng tài ba.
Từ năm 1907 đến năm 1914, Steiner qua lại giữa Anh và Châu Âu để chỉ huy các tác phẩm sân khấu. Mới 15 tuổi, Steiner đã lần đầu bước vào thế giới âm nhạc chuyên nghiệp. Steiner đã viết và chỉ huy vở operetta The Beautiful Greek Girl, nhưng cha anh nói nó chưa đủ hay nên không cho lên sàn diễn. Steiner liền mang tác phẩm tới ông bầu cạnh tranh là Carl Tuschl, người đưa ra lời đề nghị thực hiện. Tác phẩm được diễn tại nhà hát Orpheum trong một năm đã khích lệ Steiner. Từ đó mang lại cơ hội với những buổi trình diễn khác tại các thành phố khắp thế giới như Moskva và Hamburg. Khi quay về Viên, Steiner phát hiện cha mình bị phá sản. Tìm việc khó khăn, Steiner chuyển đến London (một phần lý do là đi theo vũ nữ người Anh mà anh đã gặp ở Viên). Tại London, Steiner được mời để chỉ huy vở Die lustige Witwe của Lehár. Anh sống tại London 8 năm, chỉ huy dàn nhạc tại Nhà hát Daly, Adelphi, Hippodrome, London Pavilion và Blackpool Winter Gardens.
Ở Anh, Steiner biên soạn, chỉ huy các tác phẩm sân khấu và nhạc giao hưởng. Nhưng Thế chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914 khiến Steiner bị giam giữ như kẻ thù trong xứ. May mắn thay, Công tước Westminster là bạn và cũng rất hâm mộ tác phẩm của Steiner đã kiếm giấy xuất cảnh sang Mỹ cho anh, dù toàn bộ tiền bạc bị giữ lại. Tháng 12 năm 1914, Steiner cập cảng New York chỉ với vỏn vẹn 32 đô la. Bản nhạc minh chứng cho khả năng Steiner thể hiện tinh thần bộ phim trong một bản nhạc chủ đề duy nhất. Tựa soundtrack nhạc phim chính có ba khía cạnh cụ thể. Thứ nhất, chủ đề hành khúc dồn dập giúp mô tả khí thế đoàn quân tiến lên và sự sụp đổ của nhân vật chính Gypo là không thể tránh khỏi. Thứ hai, nhạc chủ đề nhân vật khắc họa sự lạnh lùng điềm tĩnh và đưa khán giả đồng cảm chính xác với tâm trạng trong phim. Cuối cùng, nhạc chủ đề mang âm hưởng dân ca Ireland giúp mô tả rõ hơn bối cảnh lịch sử Ireland tác động trong phim. Nhạc phim không đồng nhất một kiểu trong suốt phim mà chỉ là khung sườn cho các mô típ giai điệu từng phần khác nhau.
Nhạc phim này gồm nhiều chủ đề khác nhau, đặc trưng cho tính cách nhân vật và tình huống khác nhau trong phim. Steiner giúp khắc họa tình yêu chân thành Katie dành cho nhân vật chính Gypo. Trong một phân cảnh, tiếng độc tấu vĩ cầm vang lên theo từng tiếng Katie gọi theo Gypo. Trong một cảnh khác, Gypo xem quảng cáo về con tàu hơi nước đến Mỹ và thay vào đó, anh lại thấy mình đang nắm tay Katie trên tàu. Chuông hôn lễ vang lên cùng tiếng đàn organ và anh thấy Katie đeo lúp che mặt, tay cầm bó hoa. Một cảnh sau đó, nhạc chủ đề về Katie cất lên khi Gypo uống say nhìn thấy một phụ nữ xinh đẹp tại quán bar, hàm ý rằng anh đã nhầm cô với Katie. Các nhạc chủ đề khác như dân ca Ireland bằng kèn Pháp cho Frankie McPhilip, chủ đề bằng nhạc cụ dây ấm áp cho Dan, Gallagher và Mary McPhillip, và chủ đề buồn bằng kèn Anh với đàn hạc cho người mù. Mô típ quan trọng nhất trong phim là "tiền công kẻ giết mướn" bằng nhạc chủ đề về sự phản bội khi Gypo phản bội người bạn Frankie của mình. Nhạc cất lên khi nhân vật Thuyền trưởng ném tiền ra bàn sau khi Frankie bị giết. Đây là tiếng đàn hạc với giai điệu hướng xuống bằng bốn nốt; quãng đầu tiên là quãng ba. Với cảnh quyết định ai sẽ là kẻ hành quyết, mô típ nhạc được lặng lẽ lặp đi lặp lại không ngừng để hình thành tội lỗi trong Gypo, mô típ nhạc được đồng bộ với tiếng nước nhỏ giọt trong nhà giam. Nhưng vào cuối phim, chủ đề này lại dùng âm lượng cực mạnh khi Gypo bước vào nhà thờ, kết thúc cao trào bằng loạt tiếng dập chũm chọe khắc họa sự sám hối của Gypo chứ không đề cập đến tội lỗi hình thành nữa.
Sáng tác của Steiner vẫn còn phong cách phim câm, chẳng hạn trước một hành động hay hệ quả sẽ là hợp âm sforzato ngay trước đó, tiếp theo là khoảng lặng. Ví dụ như khi Frankie đối mặt với Gypo đang nhìn vào khoản tiền thưởng trên giấy truy nã dán trên tường. Trong phim, Steiner thử sử dụng kỹ thuật "Mickey Mousing". Qua bản nhạc này, Steiner cho thấy tiềm năng âm nhạc điện ảnh khi cố gắng thể hiện đấu tranh nội tâm Gypo bằng việc pha trộn các nhạc chủ đề khác nhau như "Vũ khúc vòng quanh người Circassia" của Ireland, mô típ "tiền công kẻ giết mướn" và nhạc chủ đề cho Frankie. Tác phẩm kết thúc với bản nhạc gốc "Sancta Maria" của Steiner. Một số tác giả đã nhầm bản này sang "Ave Maria" của Franz Schubert.
Năm 1937, Frank Capra thuê Steiner đến chỉ huy âm nhạc của Dimitri Tiomkin cho phim Lost Horizon (1937). Việc này được coi là giải pháp an toàn vì Tiomkin còn thiếu kinh nghiệm, nếu cần thì Steiner sẽ viết lại. Tuy nhiên theo Hugo Friedhofer, Tiomkin chủ động yêu cầu chính Steiner, mến mộ ông hơn là đạo diễn âm nhạc xưởng phim khi ấy. Năm 1936, Selznick thành lập công ty phim riêng và tuyển Steiner viết nhạc cho ba bộ phim tiếp theo của mình. Cuốn theo chiều gió được AFI xếp thứ 2 cho những nhạc phim Mỹ hay nhất mọi thời đại.
Now, Voyager (1942) là nhạc phim giúp Steiner giành được Giải Oscar thứ hai của mình. Kate Daubney cho rằng bản nhạc thành công vì Steiner có khả năng "[cân bằng] ý nghĩa chủ đề với thanh âm của âm nhạc". Steiner đã dùng các mô típ và yếu tố chủ đề trong âm nhạc để nhấn mạnh sự phát triển cảm xúc câu chuyện. Sau khi hoàn thành Now, Voyager, Steiner lại được thuê để soạn nhạc cho Casablanca (1942). Steiner thường đợi cho đến giai đoạn biên tập phim mới bắt tay vào soạn nhạc. Sau khi xem Casablanca, ông thấy ca khúc "As Time Goes By" của Herman Hupfeld không thích hợp nên muốn dùng bài hát do mình sáng tác để thay thế. Tuy nhiên, Ingrid Bergman vừa cắt tóc ngắn để chuẩn bị quay For Whom the Bell Tolls (1943), nên không thể quay lại đoạn có bài hát của Steiner. Bị kẹt với "As Time Goes By", Steiner chấp nhận và biến bài hát trở thành chủ đề trung tâm trong toàn bộ bản nhạc của mình. Bản nhạc phim Casablanca được đề cử Oscar hạng mục Bản nhạc hay nhất cho phim lãng mạn hoặc hài, nhưng thất bại trước The Song of Bernadette (1943). Năm 1944, Steiner nhận giải Oscar thứ ba và cũng là cuối cùng của mình cho phim Since You Went Away (1944). Steiner lần đầu tiên trong thực tế vừa sáng tác chủ đề từ Since You Went Away vừa tái cân bằng bản nhạc đầy tâm trạng của Franz Waxman cho Rebecca. Nhà sản xuất David O. Selznick rất thích nhạc chủ đề này và yêu cầu Steiner đưa vào Since You Went Away. Năm 1947, Steiner kết hôn với Leonette Blair. Trong The Big Sleep, Steiner dùng chủ đề âm nhạc để miêu tả tính cách nhân vật. Nhạc chủ đề Philip Marlowe (Humphrey Bogart) lý thú và châm biếm bằng nốt láy vui đùa ở cuối mô típ, được miêu tả xen lẫn giữa trưởng và thứ. Cuối phim, chủ đề này được chơi hoàn toàn bằng hợp âm chính và đột ngột kết thúc hợp âm khi hết phim (cách thức này không phổ biến ở Hollywood lúc ấy). Theo Christopher Palmer, nhạc chủ đề tình yêu giữa Philip (Bogart đóng) và Vivian (Lauren Bacall đóng) là một trong những nhạc chủ đề mạnh mẽ nhất của Steiner. Steiner tận dụng sự tương phản giữa đàn dây nốt cao và trầm cùng kèn đồng để nhấn mạnh tình cảm Philip dành cho Vivian đối lập thế giới tội phạm bạo tàn.
Năm 1947, Steiner soạn nhạc cho phim noir Viễn Tây là Pursued. Steiner thành công hơn nữa với thể loại phim Viễn Tây, soạn nhạc cho hơn 20 phim quy mô lớn, phần lớn đều là những bản nhạc mang cảm hứng sử thi "xây dựng và tiến bộ của đế chế"
Các tác phẩm về sau (1953–1965)
Mặc dù kết thúc hợp đồng năm 1953, Steiner đã trở lại Warner Bros. năm 1958 và soạn nhạc cho một số phim như Band of Angels, Marjorie Morningstar và John Paul Jones, rồi thử sức trong lĩnh vực truyền hình. Steiner vẫn thích các dàn nhạc lớn và kỹ thuật nhạc tố chủ đạo trong giai đoạn này. Sức làm việc của Steiner chậm lại đáng kể vào giữa thập niên 1950 và bắt đầu làm việc tự do. Năm 1954, RCA Victor đề nghị Steiner chuẩn bị và chỉ huy nhạc giao hưởng Gone with the Wind để thu đĩa LP đặc biệt, sau này được phát hành trên CD. Ngoài ra còn có các đĩa ET ghi âm Steiner chỉ huy dàn nhạc Warner Brothers chơi nhiều bản nhạc phim của mình. Nhà soạn nhạc Victor Young và Steiner là bạn tốt của nhau, và Steiner đã giúp hoàn thành nhạc phim China Gate, vì Young qua đời trước khi kịp hoàn tất. Khung credit viết: "Nhạc của Victor Young, được người bạn cũ Max Steiner góp thêm". Có rất nhiều bản ghi âm nhạc của Steiner dưới dạng nhạc phim, bộ sưu tập và người khác ghi âm lại. Qua tuổi thất tuần Steiner vẫn còn sáng tác, dù đã yếu và gần như mù lòa nhưng các sáng tác vẫn "lộ ra sự tươi mới và dồi dào sáng tạo". Năm 1959, Steiner đã 71 tuổi, soạn ra nhạc nền phim A Summer Place trở thành một trong những giai điệu ăn khách nhất của Warner Brothers trong nhiều năm và tiêu chuẩn nhạc pop được thu âm lại. Nhạc chủ đề A Summer Place đã giữ vị trí số 1 suốt chín tuần trên xếp hạng đĩa đơn Billboard Hot 100 năm 1960 (với phiên bản làm lại cho nhạc khí của Percy Faith). Steiner tiếp tục soạn nhạc cho phim hãng Warner đến giữa thập niên 1960.
Phương pháp sáng tác
Âm nhạc làm nền hội thoại
Trong thời kỳ đầu, các nhà sản xuất tránh sử dụng nhạc nền cho các cảnh thoại vì cho rằng khán giả sẽ tự hỏi nhạc đến từ đâu. Kết quả là, Steiner ghi chú "Họ bắt đầu thêm một ít nhạc rải rác nhằm hỗ trợ các cảnh yêu đương hoặc cảnh yên lặng." Nhưng trong những khung cảnh âm nhạc là tất yếu như hộp đêm, sảnh khiêu vũ hay nhà hát, dàn nhạc giao hưởng thích hợp một cách tự nhiên hơn và được dùng thường xuyên. Để lý giải cho việc thêm nhạc vào những cảnh bình thường không có, âm nhạc được lồng ghép thông qua nhân vật hoặc thể hiện nguyên nhân rõ ràng. Ví dụ, cậu bé chăn cừu thổi sáo phía sau trên nền nhạc gia hưởng, hay nghệ sĩ vĩ cầm lang thang ngẫu nhiên đi theo cặp đôi trong cảnh yêu đương tình tứ. Tuy nhiên, vì một nửa lượng nhạc được ghi trên trường quay, Steiner nói rằng điều đó dẫn đến rất nhiều bất tiện và tốn kém khi sau đó phải biên tập lại, nhạc thường bị phá hỏng. Khi công nghệ ghi âm đương thời được cải thiện, ông có thể ghi âm nhạc đồng bộ hóa với phim và thay đổi nhạc sau quá trình biên tập. Steiner giải thích phương pháp soạn nhạc điển hình của riêng mình:
Khi soạn nhạc phim, Steiner thường hướng theo bản năng và lý trí của mình. Ví dụ, khi làm ngược lại ý kiến Selznick muốn dùng nhạc cổ điển cho Cuốn theo chiều gió, Steiner nói:
Bản nhạc cổ điển đôi khi tác động tiêu cực cho phim, đặc biệt khi quá quen thuộc lại vô tình làm khán giả chú ý đến nhạc thay vì hình ảnh. Ví dụ, những phim như 2001: A Space Odyssey, The Sting và Manhattan có giai điệu dễ nhận biết thay vì dùng hiệu ứng "trong tiềm thức" được ưa chuộng hơn. Steiner là một trong những người đầu tiên nhận thấy cần thiết phải có những bản nhạc gốc riêng cho mỗi phim.
Steiner cảm biết thời điểm phát và dừng là khó nhất trong tạo nhạc, vì nhạc đưa vào không đúng có thể tăng tốc cảnh quay đáng ra cần chậm và ngược lại: "Cảm biết sự khác biệt sẽ tạo ra nhà soạn nhạc phim." Wagner là người phát minh leitmotif có ảnh hưởng đến sáng tác của Steiner. Âm nhạc Steiner chủ yếu dựa vào nét chủ đạo. Ông cũng sẽ trích dẫn những giai điệu có sẵn, dễ nhận biết vào trong bản nhạc của mình, chẳng hạn như quốc ca. Người ta biết đến cũng như thường phê bình Steiner vì sử dụng kỹ thuật Mickey Mousing hoặc "bắt hành động". Kỹ thuật này có đặc trưng khớp chính xác nhạc với hành động hoặc cử chỉ trên màn hình. Steiner bị chỉ trích vì dùng kỹ thuật này quá thường xuyên. Ví dụ, trong Of Human Bondage, Steiner dùng nhạc tạo ra hiệu ứng bước thấp bước cao mỗi khi nhân vật khoèo chân đi lại.
Một trong những nguyên tắc quan trọng Steiner áp dụng bất cứ khi nào có thể là: Mỗi nhân vật nên có một nhạc chủ đề. "Steiner tạo ra một bức tranh âm nhạc truyền tải tất cả những gì chúng ta cần biết về nhân vật." Để đạt được điều này, Steiner đồng bộ âm nhạc với hành động trần thuật trên phim, và nét chủ đạo đóng vai trò như khung cấu trúc trong tác phẩm.
Một minh chứng điển hình rõ nét nhất về cách nhân vật và âm nhạc đồng bộ với nhau là nhạc phim The Glass Menagerie (1950):
- Với nhân vật nữ chính Laura tàn tật, Steiner phải "bằng cách nào đó nắm bắt được bằng âm thanh cuộc trốn chạy của cô thoát khỏi hiện thực hào nhoáng vào thế giới ảo tưởng bằng những bức tượng thủy tinh... Kết quả là âm sắc trong trẻo thích hợp;... dùng thoải mái đàn tăng rung, celesta, dương cầm, đàn chuông và kẻng tam giác giúp tăng cường vẻ mong manh và vẻ đẹp âm thanh."
- Với người anh trai quân nhân đi nhiều nơi của Laura: "Chủ đề Tom mang âm hưởng thể loại blues thành thị lớn, phong phú và ấm áp... [và] cho chúng ta vài nét về bản chất tốt bụng của Tom."
- Với Jim, 'chàng trai trong mộng' mà Laura mong đợi từ lâu sẽ sớm biến đổi cuộc đời cô: "Giai điệu nho nhã phản ánh tính cách dễ mến và trung thực... Các yếu tố trong chủ đề của Jim được lồng vào bản nhạc khiêu vũ tại phòng 'Paradise' khi anh khẳng định nét đẹp cốt yếu của cô và bắt đầu thành công bật lại nỗi mặc cảm sâu thẳm trong cô. Trên đường về nhà, âm nhạc làm khung cảnh tối đi chuẩn bị cho việc Jim tiết lộ đã đính hôn với cô gái khác."
Một phim khác minh chứng nhân vật và âm nhạc đồng bộ với nhau là The Fountainhead (1949): Nhân vật Roark, một kiến trúc sư lý tưởng (do Gary Cooper thủ vai):
Giống như cách Steiner tạo ra nhạc chủ đề cho mỗi nhân vật trong phim, âm nhạc của ông đã phát triển các chủ đề để thể hiện khía cạnh cảm xúc cho những cảnh thông thường có nội dung không mang sắc thái tình cảm. Ví dụ:
- King Kong (1933): Bản nhạc kể chuyện đang diễn ra trong phim. Nó thể hiện "cảm giác âu yếm của Kong trước nạn nhân bất lực của mình." Âm nhạc nhấn mạnh những cảm xúc mà máy quay đơn thuần không thể diễn tả được. Nhạc phim cho thấy "sức mạnh cơ bản của âm nhạc để gây khiếp hãi và để nhân bản hóa".
- The Letter (1940), với sự diễn xuất của Bette Davis: Nhạc phim tạo ra bầu không khí "sức ép và bạo lực miền nhiệt đới" bằng cách "bùng lên ngay đoạn credit fortissimo khắp không gian". Nhạc Steiner nhấn mạnh chủ đề bi kịch và đam mê của phim.
- The Big Sleep (1946): Nhạc phim này "sầm lại cho khớp" với bầu không khí thay đổi trong phim. Nó tạo ra cảm giác ngột ngạt bằng bộ dây cao "đấu nhịp nhàng" với bộ dây trầm và kèn đồng.
- The Treasure of the Sierra Madre (1948): Steiner dùng âm nhạc làm gia tăng nỗi thống khổ của Bogart và Holt khi họ bị bỏ lại để đào mỏ dưới trời nắng gắt. Âm nhạc "giả định nhân vật đang trong một đoàn tang lễ chống đối mãnh liệt". Bắt nhịp nhạc dúm lại như tâm trí Bogart. Nhạc cũng dùng để nhấn mạnh chủ đề tham lam. Nó "cho chúng ta biết bản chất suy nghĩ lướt qua tâm trí Holt khi đứng bên ngoài khu mỏ đổ nát". Nhưng khi giai điệu ấm áp nổi lên lại phản ánh lòng tốt của Holt đã cứu Bogart khỏi sập mỏ. "Cao trào được đánh dấu qua khúc grandioso hùng tráng chơi bằng cả dàn giao hưởng".
Âm nhạc hiện thực và nhạc nền
Khi đưa nhạc vào phim, Steiner sử dụng "quy trình đánh dấu" (spotting process), trong đó ông và đạo diễn sẽ xem toàn bộ phim và thảo luận về điểm đầu, cuối cho nhạc thực tế (diegetic). Một kỹ thuật khác mà Steiner sử dụng là trộn nhạc nền và nhạc thực tế. Ví dụ, nhân vật tự đang ngâm nga là âm nhạc hiện thực còn dàn nhạc có thể chơi cùng giai điệu đó tạo ra hiệu ứng nhạc nền gắn liền với hình ảnh. Kỹ thuật này của Steiner bị chỉ trích vì nhận thức về nhạc phim có thể làm hỏng ảo ảnh tường thuật của phim. Tuy nhiên, Steiner hiểu tầm quan trọng để phim trở nên nổi bật, khiến âm nhạc "lệ thuộc... vào hình ảnh" và nói rằng "nếu phô diễn quá, nó sẽ mất đi sức lôi cuốn về cảm xúc". Trước năm 1932, các nhà sản xuất phim có tiếng cố gắng tránh dùng nhạc nền vì người xem sẽ thắc mắc không hiểu nhạc từ đâu ra. Steiner được biết đến với việc sử dụng âm nhạc không có nội dung giai điệu nhưng tạo ra bầu không khí cho những cảnh quay trung tính nhất định. Steiner thiết kế chuyển động có giai điệu để tạo ra thứ nhạc nghe bình thường làm khán giả không bị phân tâm khỏi nội dung phim. Ngược lại, Steiner đôi khi sử dụng nhạc hiện thực hoặc tự sự để nhấn mạnh hoặc phủ nhận những cảm xúc nhất định. Theo Steiner, "không có đối âm nào lớn hơn... nhạc đồng tính nam ẩn chứa cảnh bi kịch hoặc ngược lại".
Ảnh hưởng
Ghi công trong ngành
nhỏ|Khai trương tấm biển Max Steiner năm 1988 (R. Blumauer, H. Weißmann và [[Helmut Zilk trong ảnh)]]
Ba trong số những bản nhạc của Max Steiner đã giành được Giải Oscar cho nhạc phim hay nhất: The Informer (1935), Now, Voyager (1942) và Since You Went Away (1944). Steiner có được chứng nhận cho phim The Informer. Ban đầu ông nhận bằng khen (plaque) cho Now, Voyager và Since You Went Away nhưng rồi được thay bằng tượng Oscar năm 1946. Với tư cách cá nhân, Steiner đã được đề cử tổng cộng 20 giải Oscar và giành được hai giải. Trước năm 1939, Viện Hàn lâm chỉ công nhận bộ phận âm nhạc trong xưởng phim để đề cử hạng mục nhạc phim, chứ không phải cá nhân nhà soạn nhạc. Giai đoạn ấy, nhạc của Steiner trong The Lost Patrol và The Charge of the Light Brigade được đề cử, nhưng Viện Hàn lâm không coi những đề cử này thuộc về cá nhân Max Steiner. Do đó, tuy nhạc phim The Informer giành giải Oscar năm 1936 nhưng Viện Hàn lâm không coi Steiner là người chiến thắng giải thưởng hạng mục cá nhân, vì ông nhận giải trên cương vị người đứng đầu thay mặt cho bộ phận âm nhạc RKO. Steiner được 20 đề cử cho hạng mục nhạc phim, đứng thứ ba trong lịch sử sau John Williams và Alfred Newman. trái|nhỏ|Tấm biển tại nơi sinh của Steiner ở Praterstraße 72, Vienna Ngày 16 tháng 9 năm 1999, Bưu chính Hoa Kỳ phát hành bộ tem "American Music Series" (Loạt âm nhạc Hoa Kỳ) để tri ân các nhà soạn nhạc lừng danh của Hollywood, trong đó có con tem Steiner giá mặt 33c. Sau khi Steiner qua đời, Charles Gerhardt đã chỉ huy Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia Hoa Kỳ làm một album RCA Victor về dấu mốc trong sự nghiệp Steiner với tựa đề Now, Voyager. Steiner cũng giành Giải Quả cầu vàng cho nhạc phim hay nhất với Life with Father (1947). Năm 1995, Steiner được truy cử vinh danh vào Đại sảnh Danh vọng Nhà soạn nhạc. Năm 1988, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Steiner, thị trưởng thành Viên lúc đó là Helmut Zilk đã khai trương tấm bảng kỷ niệm tại nơi sinh Steiner, khách sạn Nordbahn (nay là Austria Classic Hotel Wien) trên đường Praterstraße 72.
Dấu ấn trong giới soạn nhạc
Trong Film Music, Kurt London bày tỏ ý kiến cho rằng sáng tác nhạc phim Mỹ thua kém châu Âu vì thiếu tính độc đáo nhưng Steiner là một ngoại lệ. Steiner cùng với các soạn giả đương thời Erich Wolfgang Korngold và Alfred Newman đã thiết lập phong cách và hình thức nhạc phim thời đó cũng như sau này. Được biết đến với phong cách âm nhạc tương đồng, Roy Webb sống cùng thời và cũng là bạn Steiner cho đến khi ông qua đời. Bản nhạc Mighty Joe Young của Webb gợi nhớ đến Steiner. Nhà soạn nhạc cho James Bond là John Barry nói Steiner có ảnh hưởng đến tác phẩm của mình. James Newton Howard, nhà soạn nhạc phim King Kong phiên bản làm lại năm 2005, nói rằng ông bị ảnh hưởng từ nhạc của Steiner; nhạc chủ đề hạ xuống trong cảnh đầu tiên Kong xuất hiện gợi nhớ đến nhạc Steiner. Trên thực tế với phiên bản 2005, nhạc trong cảnh bộ lạc hiến tế chính là nhạc của Steiner cùng phân cảnh phiên bản năm 1933. Nhà soạn nhạc phim cho Star Wars là John Williams nêu danh Steiner cũng như các nhà soạn nhạc châu Âu nhập cư khác vào thập niên 1930 và 1940 trong "Thời kỳ hoàng kim" của nhạc phim đã ảnh hưởng tới tác phẩm của mình. George Lucas muốn Williams sử dụng nhạc của Steiner và Korngold tác động tới nhạc Star Wars, bất chấp sự hiếm hoi nhạc phim hoành tráng và việc không dùng nét chủ đạo cũng như cả dàn nhạc trong thập niên 1970.
Giới phê bình thường so sánh Steiner với Erich Wolfgang Korngold đương thời là đối thủ cũng như bạn Steiner tại Warner Bros., cho rằng nhạc Steiner kém hơn Korngold. Nhà soạn nhạc David Raksin cho rằng nhạc Korngold "cấp bậc cao hơn với tầm rộng hơn nhiều". Tuy nhiên, theo American Film Music của William Darby và Jack Du Bois, dù các nhà soạn nhạc nền phim khác có một số bản hay hơn Steiner, không ai từng tạo ra nhiều bản nhạc "rất tốt" như Steiner. Có thể thành tích cá nhân không cao nhưng Steiner có ảnh hưởng lớn đến lịch sử. Steiner là một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên đưa lại âm nhạc vào phim sau khi phim thoại ra đời. Nhạc phim King Kong trở thành hình mẫu cho phương thức thêm nhạc nền vào phim. Một số người cùng thời không ưa nhạc của Steiner. Miklós Rózsa chỉ trích Steiner về việc sử dụng Mickey Mousing và không thích âm nhạc của ông, nhưng cũng thừa nhận Steiner đã có một sự nghiệp thành công và "cảm giác giai điệu" tốt.
Giờ đây được coi là "cha đẻ nhạc phim" hay "trưởng lão nhạc phim", Steiner đã viết hoặc chuyển soạn cho hơn 300 bộ phim trong toàn bộ sự nghiệp. Con trai của Erich Korngold là George Korngold sản xuất album Classic Film Score Series (Loạt nhạc phim cổ điển) trong đó có nhạc Steiner. Albert K. Bender thành lập Hiệp hội âm nhạc Max Steiner (Max Steiner Music Society) với các thành viên quốc tế tham gia, xuất bản tạp chí, bản tin và thư viện bản ghi âm. Năm 1981, tổ chức này giải tán khi bộ sưu tập Steiner được chuyển đến Đại học Brigham Young. Hiệp hội Tưởng niệm Max Steiner (Max Steiner Memorial Society) được thành lập tại Vương quốc Anh kế tục công tác của Hiệp hội Âm nhạc Max Steiner.
Thành tựu điện ảnh
Viện phim Mỹ lần lượt xếp hạng nhạc Steiner cho Cuốn theo chiều gió (1939) và King Kong (1933) ở vị trí thứ 2 và thứ 13 trong danh sách 25 nhạc phim hay nhất. Các nhạc phim sau đây của ông cũng được đề cử vào danh sách:
- The Informer (1935)
- Jezebel (1938)
- Dark Victory (1939)
- Casablanca (1942)
- Now, Voyager (1942)
- Adventures of Don Juan (1948)
- Johnny Belinda (1948)
- The Treasure of Sierra Madre (1948)
- A Summer Place (1959)