✨Công Tôn Uyên

Công Tôn Uyên

Công Tôn Uyên (chữ Hán: 公孫淵; ?-238) tự Văn Ý (文懿), là quân phiệt cát cứ ở Liêu Đông thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Giành ngôi của chú

Công Tôn Uyên là con của Công Tôn Khang và là cháu nội của Công Tôn Độ – người đặt nền móng cát cứ của họ Công Tôn ở Liêu Đông.

Khi Công Tôn Khang qua đời, Công Tôn Uyên và anh là Công Tôn Hoảng còn nhỏ nên chú ông là Công Tôn Cung được thủ hạ lập làm Thái thú Liêu Đông.

Công Tôn Cung sai Công Tôn Hoảng vào Lạc Dương làm con tin với triều đình Tào Ngụy sau khi Ngụy Văn Đế thừa nhận Công Tôn Cung. Năm 228 đời Ngụy Minh Đế Tào Duệ, Công Tôn Uyên đoạt ngôi của chú, trở thành người cai quản Liêu Đông.

Trở mặt với Tôn Quyền

Năm 229, Tôn Quyền chính thức xưng đế ở Đông Ngô, từ bỏ ngôi vị Ngô vương do hoàng đế nhà Ngụy Tào Phi phong năm 222. Năm 233, Công Tôn Uyên sai sứ đến Đông Ngô xin kết giao. Tôn Quyền mừng rỡ, không nghe theo lời can của Trương Chiêu, sai Hứa Yển và Trương Di mang 1 vạn quân và nhiều châu báu, đi theo đường biển đến Liêu Đông, phong Công Tôn Uyên làm Yên vương để hy vọng Công Tôn Uyên cùng giáp công đánh Ngụy từ phía bắc.

Tuy nhiên sau đó Công Tôn Uyên đổi ý, khi sứ đoàn của Đông Ngô đến Liêu Đông, ông bèn giết chết Hứa Yển và Trương Di, thu luôn 1 vạn người của Đông Ngô làm thuộc hạ và chiếm toàn bộ châu báu của nước Ngô mang sang.

Tôn Quyền rất hận Công Tôn Uyên và ân hận vì không nghe lời can của Trương Chiêu, định khởi đại binh vượt biển đánh Liêu Đông, nhưng sau đó nghe theo lời can gián của Tiết Tung, bèn thôi việc đó.

Chống Tào Ngụy

Năm 237, Ngụy Minh Đế muốn thôn tính Liêu Đông, bèn sai thứ sử U châu là Vô Kỳ Kiệm mang chiếu thư của triều đình đến gọi Công Tôn Uyên vào Lạc Dương triều kiến.

Công Tôn Uyên không dám vào chầu vì sợ bị bắt giữ, bèn khởi binh phản Ngụy. Quân Liêu Đông giao tranh với quân U châu, đánh nhau tại huyện Liêu Toại. Công Tôn Uyên đánh lui được Vô Kỳ Kiệm.

Kế đó, ông tự xưng là Yên vương, phong Vương Kiến làm tướng quốc, sai người đi quan hệ với người Tiên Ty (ở Nội Mông), giục họ khuấy đảo vùng biên giới nước Ngụy cạnh Trường Thành.

Năm 238, Ngụy Minh Đế sai Tư Mã Ý mang đại quân đánh Yên. Tháng 6 năm đó quân Ngụy tiến tới Liêu Đông. Công Tôn Uyên cho rằng quân Ngụy đi viễn chinh không thể đánh lâu, có thể dựa vào sông Liêu Hà kháng cự, nên phái hai tướng Ty Diễn và Dương Tộ mang vài vạn quân ra chống giữ ở Liêu Toại.

Tư Mã Ý mang 4 vạn quân vượt qua Cô Trúc và Kiệt Thạch, tiến thẳng tới Liêu Hà. Tư Mã Ý sai người cắm nhiều cờ xí ở phía nam để thu hút sự chú ý của quân Yên, tỏ ra muốn tấn công Liêu Toại. Điều đó khiến Công Tôn Uyên chú trọng vào phòng thủ nơi đây. Nhưng sau đó Tư Mã Ý phát đại quân vượt sông Liêu Hà, áp sát trại Yên, kế đó lại không đánh vào trại quân Yên mà bất ngờ bí mật sang đánh căn cứ của Công Tôn Uyên ở Tương Bình.

Công Tôn Uyên vội dẫn quân về cứu Tương Bình. Tư Mã Ý chia đường đón đánh. Công Tôn Uyên giao chiến với quân Ngụy 3 trận thua cả 3, phải rút vào thành Tương Bình cố thủ.

Quân Ngụy vây thành Tương Bình trong vài tháng. Trời đổ mưa to, Tư Mã Ý vẫn kiên trì siết vòng vây không rút lui lên chỗ cao. Sau khi nước rút, Tư Mã Ý càng thúc quân Ngụy đánh thành gấp. Công Tôn Uyên lo lắng sai tướng quốc Vương Kiến cùng Ngự sử đại phu Liễu Phủ đi thỉnh cầu Tư Mã Ý giải vây. Tư Mã Ý không nghe, chém chết cả hai sứ giả. Công Tôn Uyên lo sợ bèn sai Thị trung Vệ Diễn đến xin đưa nộp con tin sang Ngụy. Tư Mã Ý không chấp nhận.

Công Tôn Uyên không còn cách nào, buộc phải phá vòng vây để ra. Ông cùng các tướng đánh ra cửa nam, nhưng không thoát khỏi vòng vây quân Ngụy, bị tử trận bên bờ sông Lương Thủy.

Tư Mã Ý mang quân vào thành Tương Bình, giết 7000 đàn ông từ 15 tuổi trở lên, thu thập xác chất thành đống cao, hơn 2000 quan văn võ do Công Tôn Uyên bổ nhiệm đều bị chém hết.

Họ Công Tôn tính từ Công Tôn Độ trấn giữ Liêu Đông năm 189 thời Hán Linh Đế tới Công Tôn Uyên bị giết năm 238 đời Ngụy Minh Đế được 3 đời, tổng cộng 50 năm.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công Tôn Uyên** (chữ Hán: 公孫淵; ?-238) tự **Văn Ý** (文懿), là quân phiệt cát cứ ở Liêu Đông thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Giành ngôi của chú Công Tôn Uyên
**Công Tôn Cung** (chữ Hán: 公孫恭) là quân phiệt cát cứ ở Liêu Đông thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Công Tôn Cung là con thứ của Công Tôn Độ
nhỏ|phải|họ Công Tôn viết bằng chữ Hán **Công Tôn** (chữ Hán: 公孫, Bính âm: Gongsun, Wade-Giles: Kung-sun) là một họ của người Trung Quốc. ## Nguồn gốc Họ **Công Tôn** có nguồn gốc lâu đời.
nhỏ|Biên giới Gongsun **Công Tôn Khang** (chữ Hán: 公孫康) là quân phiệt cát cứ ở Liêu Đông thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Kết liễu họ Viên Công Tôn Khang là con
**Tôn Quyền** (; 5 tháng 7 năm 182– 21 tháng 5, 252), tự là **Trọng Mưu** (仲谋), thụy hiệu **Ngô Đại Đế** (吴大帝, tức là "Hoàng đế lớn của Ngô"), là người sáng lập của
**Văn Đức Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 文德順聖皇后, 15 tháng 3, 601 – 28 tháng 7, 636), thông thường được gọi là **Trưởng Tôn hoàng hậu** (長孫皇后), là Hoàng hậu duy nhất của Đường
**Trưởng Tôn Vô Kị** (chữ Hán: 長孫無忌; 594 - 659), biểu tự **Phù Cơ** (辅机), là đại công thần trong triều đại nhà Đường trải qua ba đời Hoàng đế nhà Đường, từ Đường Cao
**Tưởng Uyển** (tiếng Hán: 蔣琬; Phiên âm: Jiang Wan) (???-246), tự **Công Diễm** (公琰), là đại thần nhà Thục Hán trong thời kỳ Tam Quốc. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, ông kế nhiệm
**Tôn Di** () là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Tôn Di. _Tam quốc chí_ chép Tôn
**Thụy Bảo Công chúa** (chữ Hán: 瑞寶公主, ? - ?) là một công chúa nhà Trần, hoàng nữ thứ ba của Trần Thái Tông trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời ### Thân thế
thumb|Tượng đài Trình quốc công [[Nguyễn Bỉnh Khiêm trong khuôn viên Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hải Phòng. Dưới thời quân chủ của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số
**Thượng Quan Uyển Nhi** (Phồn thể: 上官婉兒; giản thể: 上官婉儿; 664 - 21 tháng 7, 710), còn gọi là **Thượng Quan Chiêu dung** (上官昭容), là một trong những nữ chính trị gia nổi tiếng của
**Uyên ương** (danh pháp hai phần: **_Aix galericulata_**) là một loài vịt đậu cây kích thước trung bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ. ## Đặc điểm và
**Trưởng Tôn Thuận Đức** (chữ Hán: 长孙顺德, ? – ?), người quận Lạc Dương huyện Hà Nam, là võ tướng đầu thời Đường, chú của Trưởng Tôn Vô Kỵ và Trưởng Tôn Hoàng hậu, là
**Uyển Trinh** (chữ Hán: 婉貞; 13 tháng 9 năm 1841 - 19 tháng 6 năm 1896), Na Lạp thị, còn được gọi là **Thuần Hiền Thân vương phi** (醇賢親王妃), Vương phi của Thuần Hiền Thân
nhỏ|phải|[[Akhal-Teke loài được cho rằng chính là Hãn huyết mã của Đại Uyển]] **Ngựa Đại Uyển** (tiếng Trung Quốc: 大宛馬/宛馬, Đại Uyển mã) hay **ngựa Fergana** là một giống ngựa ở vùng Trung Á tại
**Lê Uyên Phương** là nghệ danh chung của đôi vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 – mất ngày 29 tháng 6 năm 1999) và ca sĩ Lê
**Thái Bình Công chúa** (chữ Hán: 太平公主; 665 - 1 tháng 8, 713), phong hiệu đầy đủ là **Trấn Quốc Thái Bình Công chúa** (鎮國太平公主), công chúa nhà Đường, là một Hoàng nữ của Đường
Tôn Thất Dương Kỵ Giáo sư **Tôn Thất Dương Kỵ** tên thật là **Nguyễn Phúc Dương Kỵ** (1914 – 1987) là nhà trí thức và chính khách người Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản
**Khổng tước công chúa** hay **Chàng Sisouthone và nàng Manola** () là những nhan đề phi chính thức một huyền thoại Thái tộc thịnh hành từ trung đại trung kì tới nay, có ảnh hưởng
**Cao Mật Công chúa** (chữ Hán: 高密公主, bính âm: Gāomì gōngzhǔ; ? - 655), là công chúa nhà Đường, con gái thứ tư của Đường Cao Tổ Lý Uyên, chị gái của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Không
**Tổn thất chấp nhận được** hay còn gọi là thiệt hại có thể chấp nhận được, là một uyển ngữ quân sự được sử dụng để chỉ ra thương vong nhân mạng hoặc hủy hoại
:_Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị. Xin xem bài hệ thống xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản và chủ
**Tôn phu nhân** (chữ Hán: 孫夫人), 190-266, là một người vợ Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị, người đã lập ra Thục Hán vào thời kì thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Theo
Khi nhà nước Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào tháng Tư năm 1975, trong ngân khoản dự trữ của chính phủ Việt Nam Cộng hòa cất trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam có
**Tôn Thọ Tường** (chữ Hán: 尊壽祥; 1825 - 1877) là một danh sĩ sống vào thời nhà Nguyễn. Do ông cộng tác với thực dân Pháp nên bị nhiều trí thức người Việt chỉ trích
nhỏ|phải|Một phụ nữ khỏa thân đang làm một nghi thức dâng cúng thần linh **Khoả thân trong tôn giáo** (_Nudity in religion_) liên quan đến niềm tin tôn giáo làm cơ sở cho thái độ
**Bạt Bạt Tung** (chữ Hán: 拔拔嵩) hay **Trưởng Tôn Tung** (长孙嵩, 358 – 437 ), tướng lãnh, khai quốc công thần nhà Bắc Ngụy. Ông có họ hàng gần với hoàng thất Bắc Ngụy, hộ
**Tôn giáo Việt Nam thế kỷ 10** phản ánh sự phát triển và ảnh hưởng của các tôn giáo tại Việt Nam trong khoảng 100 năm từ sau nghìn năm Bắc thuộc, tức là thời
**Văn Thành công chúa** (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là **Gyamoza** (chữ Tạng: ), Hán ngữ là **Hán Nữ thị** (漢女氏) hoặc **Giáp Mộc Tát Hán công chúa** (甲木薩漢公主;
thumb|[[Thọ Tang Hòa Thạc Công chúa|Hòa Thạc Thọ Tang Công chúa - con gái của Đạo Quang Đế.]] là phong hào chính thức của các thứ hoàng nữ nhà Thanh, trong tiếng Mãn, "hòa thạc"
**Tôn Hoàn** (, 198 – 223), hay **Du Hoàn** (俞桓), tên tự là **Thúc Vũ** (叔武), là tông thất, tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Tôn
**Khu bảo tồn thiên nhiên Sikhote-Alin** (, , ) hay còn được gọi là _Khu bảo tồn thiên nhiên K. G. Abramov_ là một khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn thiên nhiên nằm
Trong các **tôn giáo Đại Việt thời Lý**, Phật giáo về cơ bản là tôn giáo có ảnh hưởng nhiều nhất, ngoài ra Nho giáo và Đạo giáo cũng có tác động đến đời sống
**Thái uý** (chữ Hán: 太尉, hay _thái úy_) là một chức quan võ cao cấp trong quân đội một số triều đại phong kiến của Trung Quốc và Việt Nam. ## Lịch sử Chức vị
phải|Trạm y tế ở thôn quê [[chích ngừa cho trẻ em]] **Y tế Việt Nam Cộng hòa** là hệ thống cung cấp dịch vụ y khoa công cộng của Việt Nam Cộng hòa. Cơ cấu
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**Công nữ Ngọc Hoa** (chữ Hán: 公女玉華; ?–1645), còn gọi là **Ngọc Hoa công chúa** (玉華公主), là một công nữ dưới thời các Chúa Nguyễn, được biết đến là con gái nuôi của Chúa Sãi
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]]
Bản đồ các tỉnh thuộc **Quân khu III** **Quân đoàn III** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải
**Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy** (chữ Hán: 阮福永瑞; 4 tháng 3 năm 1824 – 27 tháng 4 năm 1863), phong hiệu **Phú Phong Công chúa** (富豐公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
Hình:South Vietnam film clapperboard.png **Danh sách phim điện ảnh Việt Nam Cộng hòa** gồm những bộ phim được chế tác tại Việt Nam Cộng hòa giai đoạn 1955 – 1975. ***Phim tài liệu khuyết thông
**Yên** (**燕 國**) là một vương quốc ở Trung Quốc tồn tại từ năm 237 đến tháng 9 năm 238 ở khu vực bán đảo Liêu Đông trong thời kỳ Tam Quốc. Nước này dựng
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Uyển Dung** (chữ Hán: 婉容; 13 tháng 11, năm 1906 - 20 tháng 6, năm 1946), Quách Bố La thị, biểu tự **Mộ Hồng** (慕鸿), hiệu **Thực Liên** (植莲), là nguyên phối Hoàng hậu của
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
**Tiêu Uyên Minh** (, ?-556), tên tự **Tĩnh Thông** (靖通) còn gọi là **Lương Mẫn Đế** (梁閔帝), là một hoàng đế có thời gian trị vì ngắn ngủi của triều đại Lương trong lịch sử
**Chiến tranh Hán – Đại Uyên** hay còn được gọi là **Thiên Mã chi chiến** (chiến tranh vì ngựa trời) là một cuộc xung đột vũ trang diễn ra từ năm 104 đến năm 101
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 張昭; [156|] - 236) là khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Chối từ tiến cử Trương Chiêu có tên tự
**Tư Mã Ý** (chữ Hán: 司馬懿; 179 – 7 tháng 9 năm 251), biểu tự **Trọng Đạt** (仲達), là nhà chính trị, nhà quân sự phục vụ nước Tào Ngụy thời kỳ Tam Quốc trong
**Lưu Uyên** () (mất 310), tên tự **Nguyên Hải** (元海), được biết đến với thụy hiệu **Hán (Triệu) Quang Văn Đế** (漢(趙)光文帝) là vị hoàng đế khai quốc nhà Hán Triệu trong lịch sử Trung