✨Khổng tước công chúa

Khổng tước công chúa

Khổng tước công chúa hay Chàng Sisouthone và nàng Manola () là những nhan đề phi chính thức một huyền thoại Thái tộc thịnh hành từ trung đại trung kì tới nay, có ảnh hưởng sâu sắc tới sinh hoạt tín ngưỡng và truyền thống ca vũ nhạc tại khu vực Đông Nam Á.

Lịch sử

Cho tới hiện đại hậu kì, các cứ liệu chép lại truyền thuyết Khổng tước công chúa có sớm nhất chỉ từ thập niên 1960 tại nhiều quốc gia Đông Á với nhiều ngôn ngữ khác nhau, tuy nhiên nội dung nhìn chung khá nhất quán.

Thời điểm thực sự hình thành truyền thuyết này tuy chưa rõ ràng, nhưng hoàn toàn có thể xác định được là khoảng triều Đường trở đi, khi Đại Lễ quốc bước đầu hưng khởi và bành trướng sức ảnh hưởng ra xung quanh. Tựu trung đây là giai đoạn hưng phấn nhất của văn hóa Thái và huyền tích này là một chứng cứ xác đáng cho cường lực văn hóa tín ngưỡng Nam Chiếu đối với các tiểu vùng Hoa Nam và Đông Nam Á đại lục.

Nội dung

[[Khổng tước vũ tại Vancouver (Canada), 2012.]] Ca vũ Khổng tước công chúa tại [[Vân Nam (Trung Quốc), 2020.]] [[Vũ nữ Khmer trình diễn Robam Moni Mekhala tại Phnom Penh (Kampuchea), 2016.]] Ở một xứ sở nọ có vị vương tử rất đỗi anh dũng và tuấn tú. Một hôm, đương lúc đi săn, chàng nhác thấy con diều hâu quắp một con rùa vàng, bèn giương cung bắn, diều bị thương liền bỏ mồi mà chạy mất. Rùa vàng lúc đó mới hiện nguyên hình là thủy tề, bèn biếu vương tử một thanh gươm báu để đền ơn cứu mạng.

Hôm ấy, khi trời vừa sẩm tối, vương tử đi tới một thác nước và thấy tám thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần đang tắm, bèn cướp vội một chiếc áo mà giấu đi. Các thiếu nữ ấy tắm xong bèn lên bờ, khoác áo lại và bỗng bay vút lên tầng không khuất dạng, chỉ có nàng út phải ở lại vì ngỡ như mất áo.

Vương tử bấy giờ mới bước ra, hỏi truyện mới hay nàng là tiên ở thiên quốc, bèn đưa nàng về ra mắt song thân. Tự bấy nàng tiên út ở lại làm vương phi, ai nấy trong triều đều kinh ngạc trước nhan sắc và tài ca vũ của nàng.

Đương thời, vị quốc sư được triều đình nể trọng lại hóa ra là con diều hung ác, thường bay đi muôn phương bắt người về xơi thịt. Y rắp tâm hãm hại đôi uyên ương, bèn sang lân quốc xúi giục chiến tranh với nước mình, khiến cho vương tử phải thân chinh ra trận.

Vắng vương tử, quốc sư bèn rao truyền khắp nơi rằng công chúa là yêu tinh gieo bao tai họa cho vương quốc, khiến nơi nơi điêu linh. Vì dân chúng thôi thúc quá, nhà vua đành lập giàn hỏa và đưa nàng lên đó nhằm chứng minh thanh danh.

Công chúa xin nguyện ước cuối cùng là khoác lại chiếc áo lông công múa một điệu chúc mọi người được bình an. Bèn bước lên giàn hỏa, vừa đi vừa múa, bỗng vút bay về trời.

Một thời gian sau, vương tử thắng giặc trở về, không thấy vợ đâu bèn bỏ cung thất đi tìm. Trải bao nguy hiểm khôn cùng do lão pháp sư độc ác gây ra, cuối cùng chàng cũng lần tới được thiên quốc. Vương tử liền xin yết kiến thiên đế, được cho đoàn tụ với vợ. Nhân đấy, thiên đế chỉ cho chàng hay cớ sự, chàng bèn cả giận đem gươm báu đi trừ lão pháp sư độc ác.

Vương tử đưa vợ về hạ giới sống kết nghĩa trăm năm. Từ đó về sau, công chúa lốt công đem điệu múa dạy cho cung nữ, rồi các cung nữ truyền lại cho dân gian đều hưởng.

Nguyên tự

Các danh từ riêng trong truyện được phản ánh qua sự khúc xạ ngôn ngữ như sau :

## Phong hóa Điêu tượng _Huyền thoại Chao Sisouthone và Nang Manola_ tại [[Vat That Luang (Luang Prabang), tạc thế kỷ XVI triều vua Xaysethathirath.]] _Khổng tước công chúa_ là vũ điệu thịnh hành và tương đối lâu đời tại phía Bắc khu vực Trung Ấn, bao gồm Miến Điện, Thái Lan, Lào cùng các tiểu vùng Sipsong Panna (Trung Hoa), Tây Bắc Việt Nam. Tác phẩm thường được coi là bản sắc của cộng đồng Thái, nhưng mặt khác, thể hiện rất rõ sức ảnh hưởng của văn hóa tín ngưỡng Ấn Độ đối với cộng đồng Đông Nam Á đại lục, đặc biệt là Ấn Độ giáo ở giai đoạn hưng thịnh nhất.

Còn theo ấn phẩm Myths of the Hindus & Buddhists (London, 1913) của sơ Nivedita và sư Ananda, cốt truyện Khổng tước công chúa nhằm phản ánh một truyền thuyết xa xưa hơn về cuộc chiến của nữ thần Manimekhala với khổng nhân Ramasura, gây ra hiện tượng sấm sét. Cho nên Khổng tước công chúa có bản chất là vũ điệu cầu mưa thuận gió hòa cho mùa lúa được tốt tươi và mừng mùa màng được bội thu. Trong đó, Manimekhala/Neang Mekhala tương ứng Neang Keo Monorea/Nam Mục-nhược-na, Mahajanaka tương ứng Preah Sothun/Chao Sothoun/Triệu Thụ-đồn. Sự đối nghịch vương tử-công chúa với lão pháp sư chính là tái hiện xung khắc Manimekhala với hung thần Ramasura. Hình tượng vương tử-công chúa cũng được đồng nhất với nhạc công (kinnari) và vũ công (kinnara) ở không gian sân khấu ước lệ.

Tại Kampuchea, năm 1960 giáo hội tỉnh Kampong Cham đã cho ấn hành tuyển tập Braḥpaññās jātaka (បញ្ញាសជាតក) song ngữ Pháp-Khmer, trong đó có ghi lại Cố sự Preah Sothun (រឿងព្រះសុធន) tác giả Samdach Preah Dhammalikhit Louis Em (សម្តេចព្រះធម្មលិខិត ល្វី ឯម, 1878 - 1957). Đây vốn là vở ca vũ kịch kinh điển trong kho tàng nghệ thuật Khmer, bắt nguồn từ vũ điệu Kinnara trong nghệ thuật Ấn Độ cổ đại.

Tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, năm 1963, Thượng Hải Mĩ thuật Điện ảnh Chế phiến Xưởng đã thực hiện một phim mộc ngẫu dựa theo sử thi Vương tử Triệu Thụ-đồn (召樹屯) lưu hành tại khu tự trị Tây Song Bản Nạp (Vân Nam) ; tới năm 1982 Bắc Kinh Điện ảnh Chế phiến Xưởng lại thực hiện cuốn phim màn ảnh đại vĩ tuyến Khổng tước công chúa (孔雀公主), vai chính do các tài tử Đường Quốc Cường và Lý Tú Minh đảm nhiệm. Vũ điệu chim công (ᥐᥣᥲ ᥘᥨᥐ ᥕᥧᥒᥰ , ᦝᦸᧃᧉ ᦷᦓᧅ ᦍᦳᧂ , 孔雀舞 / Khổng tước vũ) cũng là một trong những tiết mục đặc sắc trên sân khấu Trung Quốc hiện đại, khởi thủy trực tiếp từ truyền thuyết dân gian lâu đời này.

Ngày 20 tháng 05 năm 2006, Trung Quốc quốc vụ viện đã đưa khổng tước vũ vào danh mục tiêu biểu di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, từ đấy tiến hành bảo trợ các hoạt động bảo tồn và đào tạo truyền nhân để cổ xúy sự phát triển loại hình nghệ thuật truyền thống.

Năm 1990, Công ty Truyền hình Trung Quốc (Đài Loan) đã tiến hành sản xuất và công chiếu bộ phim võ hiệp huyền ảo Dục hỏa phượng hoàng, thường được dịch tại Việt Nam là Phượng hoàng lửa. Cốt truyện xoay quanh số phận Phụng Hoàng thần nữ giữa cuộc chiến của Bái Điểu tộc và Thiên Ma tộc, mượn ý từ cố sự Khổng tước công chúa. Vai chính do minh tinh Phan Nghinh Tử thủ diễn.

Tại Lào, vũ điệu chim công được gọi là lăm tơi. Cốt truyện công chúa lốt chim công cũng được đưa vào sách giáo khoa Truyện đọc lớp 3 Việt Nam thập niên 1990 với nhan đề Sự tích điệu múa công nước Lào.

Tại khu vực nay là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng lưu hành Kim Cương sơn bát tiên nữ truyền thuyết hay cố sự Nàng tiên và chàng đốn củi (선녀와 나무꾼) gắn liền với Thất Long bộc bố (九龍瀑布, 구룡폭포) là địa điểm du lịch lừng danh tại Kim Cương sơn quan quang địa khu, một dị bản Khổng tước công chúa. Trong đó, Arang và Mudal khá giống Nang Manola và Chao Sisouthone.

Tại Nhật Bản từ trung đại hậu kì đã lưu hành một bản truyện gọi là Nàng tiên hạc, nhưng chỉ gồm tình tiết chàng gánh củi bắt được cái áo lông đem giấu mà được vợ tiên.

Tại Việt Nam nay còn đền Thái Thượng Sơn, tương truyền thờ công chúa Nhồi Hoa (tương tự Manola, Monorea) nước Ải Lao từng góp nhiều voi cho hoàng đế Lê Thánh Tông (Lê Thánh Tông/Lê Tư Thành tương đồng Chao Sothoun) dẹp giặc dữ. Trong lễ hội thường niên phải có vũ điệu Champa nhằm tôn vinh bà chúa đền. Tuy nhiên, lịch sử đền và huyền tích lập đền chỉ có sớm nhất từ cuối thế kỷ XVIII, không liên đới gì tới triều đại Hồng Đức mà hoàn toàn chỉ là hư cấu dân gian. Vũ điệu chim công cũng là một trong những tiết mục đặc sắc nhất trên sân khấu Việt Nam hiện đại.

Còn tại bản quán Ấn Độ, vũ điệu chim công được cho là khởi phát từ hai bang Tamil Nadu và Kerala, trực tiếp liên quan đến lễ mừng cơm mới trong cộng đồng Tamil. Vũ điệu này truyền sang Đông Nam Á từ trung đại trung kì qua ngả Tây Java, tạo ra nhiều biến thể rất phong phú nhằm tôn vinh vẻ uyển chuyển của nữ lưu.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khổng tước công chúa** hay **Chàng Sisouthone và nàng Manola** () là những nhan đề phi chính thức một huyền thoại Thái tộc thịnh hành từ trung đại trung kì tới nay, có ảnh hưởng
**Khổng tước công chúa** (, ) là một xuất phẩm điện ảnh do Trung Quốc và Lào phối hợp thực hiện trong giai đoạn 1980 - 1981 chủ yếu tại địa phận tỉnh Vân Nam.
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Bình Dương công chúa** (Giản thể: 平阳公主; phồn thể: 平陽公主), còn gọi **Dương Tín công chúa** (陽信公主), là một Công chúa nhà Hán. Bà là con gái của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và chị
**Hòa Thạc Ôn Khác Công chúa** (chữ Hán: 和硕温恪公主, 1687 - 1709), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 13 của Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Bát Công chúa. ## Cuộc sống
nhỏ|[[Đền thờ Công chúa Phất Kim ở Hoa Lư]] **Công chúa nhà Đinh** gồm có các con gái của Vua Đinh Tiên Hoàng được ghi chép trong chính sử và dã sử. Nếu như sử
**Cố Luân Hoà Hiếu công chúa** (chữ Hán: 固倫和孝公主; 2 tháng 2 năm 1775 - 13 tháng 10 năm 1823), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 10 và nhỏ nhất của Thanh Cao
nhỏ|Mary Victoria Leiter, một nữ thừa kế người Mỹ, vợ của [[George Curzon, Hầu tước Curzon thứ 1 xứ Kedleston, từng là Phó vương phi Ấn Độ.]] **Công chúa Đô la Mỹ** (tiếng Anh: _American
**Cố Luân Ngao Hán Công chúa** (chữ Hán: 固倫敖漢公主; 1621 – 1654), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng trưởng nữ của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Cuộc đời Cố Luân Ngao Hán Công
**Hoà Thạc Hoà Khác Công chúa** (chữ Hán: 和硕和恪公主; 17 tháng 8 năm 1758 – 14 tháng 12 năm 1780), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 9 của Thanh Cao Tông Càn Long
**Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa** (, ; 4 tháng 7 năm 1679 - 4 tháng 4 năm 1735), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ sáu của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là
**Văn Thành công chúa** (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là **Gyamoza** (chữ Tạng: ), Hán ngữ là **Hán Nữ thị** (漢女氏) hoặc **Giáp Mộc Tát Hán công chúa** (甲木薩漢公主;
:_Bài này viết về một công chúa nhà Minh, đối với công chúa khác có cùng tước hiệu, xem Đường Hy Tông#Gia quyến_ **Vĩnh Bình Công chúa** (chữ Hán: 永平公主; 1379 – 22 tháng 4
thumb|[[Tào Quốc Trưởng công chúa|Tào Quốc Trưởng Công chúa - chị gái của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương.]] **Trưởng Công chúa** (Phồn thể: 長公主; giản thể: 长公主), là một tước hiệu sử dụng trong
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là một tước hiệu dành cho nữ giới, thường được phong cho con gái Hoàng đế. Tước hiệu này cũng được dùng để phong cho một số người phụ nữ
**Thiên Cực công chúa** (chữ Hán: 天極公主) là một nhân vật lịch sử vào cuối thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Hành trạng của bà xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ 13
**Thái Bình Công chúa** (chữ Hán: 太平公主; 665 - 1 tháng 8, 713), phong hiệu đầy đủ là **Trấn Quốc Thái Bình Công chúa** (鎮國太平公主), công chúa nhà Đường, là một Hoàng nữ của Đường
**Nam Cung công chúa** (chữ Hán: 南宮公主), là một Công chúa nhà Hán, là Hoàng nữ của Hán Cảnh Đế Lưu Khải và Hiếu Cảnh Vương Hoàng hậu. Do vậy, bà là em gái Bình
**Phụng Dương Công chúa** (chữ Hán: 奉陽公主; 1244 - 1291) là một nữ quý tộc, một Công chúa nhà Trần. Tuy có danh vị Công chúa nhưng bà không phải là một hoàng nữ mà
**An Lạc công chúa** (chữ Hán: 安樂公主; 684 - 21 tháng 7, 710), tên thật **Lý Khỏa Nhi** (李裹兒), công chúa nhà Đường, là Hoàng nữ thứ 8 và nhỏ nhất của Đường Trung Tông
**Cố Luân Thuần Hi Công chúa** (, 28 tháng 10 năm 1671 – 7 tháng 12 năm 1741) vốn là một tông nữ của nhà Thanh, về sau trở thành con gái nuôi của Khang
**Thụy Bảo Công chúa** (chữ Hán: 瑞寶公主, ? - ?) là một công chúa nhà Trần, hoàng nữ thứ ba của Trần Thái Tông trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời ### Thân thế
:_Bài này viết về một công chúa nhà Minh, đối với công chúa khác có cùng tước hiệu, xem Tùy Văn Đế#Gia quyến._ **An Thành Công chúa** (chữ Hán: 安成公主; 1384 – 16 tháng 9
**Vệ Trưởng công chúa** (chữ Hán: 衛長公主; 138 TCN - 91 TCN), còn gọi **Đương Lợi công chúa** (當利公主), là một Hoàng nữ và là Công chúa nhà Hán, con gái đầu lòng của Hán
**Cố Luân Vinh Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦荣宪公主, 20 tháng 6 năm 1673 - 29 tháng 5 năm 1728), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 3 nhưng lại là người lớn nhất
**Hàm Ninh Công chúa** (chữ Hán: 咸宁公主; 1385 – 27 tháng 7 năm 1440), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thành Tổ Chu Đệ, hoàng đế thứ hai của nhà Minh. ##
**Hòa Thạc Trang Kính Công chúa** (Giản thể: 和硕庄敬公主, Phồn thể: 和碩莊敬公主, 30 tháng 1 năm 1782 - 4 tháng 4 năm 1811), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ ba của Gia Khánh
**Hòa Thạc Hòa Gia Công chúa** (chữ Hán: 和硕和嘉公主; 24 tháng 12 năm 1745 - 29 tháng 10 năm 1767) là Công chúa nhà Thanh, con gái thứ tư của Thanh Cao Tông Càn Long
**Đại Danh Công chúa** (chữ Hán: 大名公主; 1368 – 30 tháng 3 năm 1426), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh.
**Cố Luân Đoan Mẫn Công chúa** (chữ Hán: 固倫端敏公主; 1653 - 1729), Ái Tân Giác La, Công chúa nhà Thanh, con gái nuôi của Thuận Trị Đế. ## Cuộc đời Cố Luân Đoan Mẫn Công
**Cố Luân Ôn Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦温宪公主, 1683 - 1702), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ chín của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Ngũ Công chúa.
**Cao Dương công chúa** (chữ Hán: 高阳公主; ? - 6 tháng 3, 653), không rõ tên thật, là con gái thứ 17 của Đường Thái Tông Lý Thế Dân. Theo vai vế, công chúa là
**Thiên Ninh công chúa** (chữ Hán: 天寕公主, không rõ năm sinh năm mất), còn gọi **Quốc Hinh công chúa** (國馨公主), là một công chúa nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Bà nổi tiếng với
**Thăng Bình công chúa** (chữ Hán: 昇平公主; ? - 810), họ Lý, không rõ tên, là một công chúa nhà Đường. Trong dân gian, bà nổi tiếng với sự tích [**Túy đả kim chi**; 醉打金枝].
**Ngạc Ấp công chúa** (chữ Hán: 鄂邑公主; ? — 80 TCN), cũng gọi **Cái chúa** (盖主), **Cái Trưởng công chúa** (蓋長公主) hoặc **Ngạc Ấp Cái Trưởng công chúa** (鄂邑蓋長公主), là một Hoàng nữ và Công
**Cố Luân Hòa Kính Công chúa** (chữ Hán: 固倫和敬公主; 28 tháng 6, năm 1731 - 15 tháng 8, năm 1792), là Hoàng nữ thứ 3 nhưng là lớn nhất trong những người con gái thành
**Hòa Thạc Đoan Tĩnh Công chúa** (chữ Hán: 和硕端静公主, 9 tháng 6 năm 1674 - 1710), công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ năm của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là Tam Công chúa.
**Cố Luân Tĩnh Đoan Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 固倫端靖長公主; 1628 - 1686) hay **Cố Luân Đoan Tĩnh Trưởng Công chúa** (固倫端靖長公主), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ ba Thanh Thái Tông Hoàng
**Cố Luân Hòa Tĩnh công chúa** (chữ Hán: 固伦和静公主; 10 tháng 8 năm 1756 - 9 tháng 2 năm 1775), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 7 của Thanh Cao Tông Càn Long
**Phúc Thanh Công chúa** (chữ Hán: 福清公主; 1370 – 28 tháng 2 năm 1417), không rõ tên thật, là hoàng nữ của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh.
**An Định Công chúa** (chữ Hán: 安定公主), tước hiệu **Thiên Kim Công chúa**, là một Hoàng nữ nhà Đường, con gái của Đường Cao Tổ Lý Uyên, sau đó lại trở thành Trưởng Công chúa,
**Vinh Xương công chúa** (chữ Hán: 榮昌公主; 1582 - 1647), công chúa nhà Minh, là đích trưởng nữ của Minh Thần Tông Chu Dực Quân. ## Tiểu sử **Chu Hiến Anh** là đích xuất duy
**Cố Luân Ung Mục Trưởng Công chúa** (, 1629 – 1678) là một Công chúa nhà Thanh, con gái thứ tư của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Tiểu sử Cố Luân Ung Mục
**Hòa Thạc Khác Tĩnh Công chúa** (chữ Hán: 和硕悫靖公主, 1689 - 1736), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ 14 của Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Cửu công chúa. ## Cuộc sống Hòa
**An Nam Công chúa** (_chữ Hán_:安南公主) là tước hiệu cũng là thụy hiệu của một số vị công chúa ở Việt Nam thời phong kiến. ## Danh sách *An Nam công chúa Lê thị (không
thumb|Tượng đài Trình quốc công [[Nguyễn Bỉnh Khiêm trong khuôn viên Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hải Phòng. Dưới thời quân chủ của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số
**Công tước** là một danh xưng để chỉ một tước hiệu quý tộc cao cấp thời phong kiến. Tước hiệu Công tước (và tương đương) từng phổ biến ở khắp châu Âu và Đông Á,
thumb|Mai Quận công [[Phùng Khắc Khoan.]] **Quận công** (chữ Hán: 郡公) là một tước hiệu thời phong kiến, do vua ban cho công thần hoặc thân thích, ở dưới tước Quốc công và trên tước
**Chu Công** (chữ Hán: 周公), tên thật là **Cơ Đán** (姬旦), còn gọi là **Thúc Đán** (叔旦), **Chu Đán** (週旦) hay **Chu Văn công** (周文公), là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử
**Công chúa xứ hoa** _(Princess)_ là một trong những tác phẩm nổi bật của tác giả Han Seung Won được sáng tác từ năm 1996. Tác giả dự định sáng tác 40 tập và hiện