Phụng Dương Công chúa (chữ Hán: 奉陽公主; 1244 - 1291) là một nữ quý tộc, một Công chúa nhà Trần.
Tuy có danh vị Công chúa nhưng bà không phải là một hoàng nữ mà được Trần Thái Tông nhận nuôi, sau được phong làm Công chúa và gả cho con trai thứ hai của ông, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải.
Tiểu sử
Theo "Phụng Dương Công chúa thần đạo bi", một trong những thông tin cổ duy nhất còn sót lại về lai lịch Công chúa, thì bà là con gái của Tướng quốc Thái sư (không rõ tên) và Tuệ Chân phu nhân (không rõ lai lịch).
Văn bia không hề ghi rõ tên bà là gì, và cũng không đề cập trực tiếp tên cha bà mà chỉ ghi Tướng quốc Thái sư. Theo nhiều suy đoán ban đầu, vị "Thái sư" này là Trần Thủ Độ, và nhận định Phụng Dương thuộc hàng cô của Trần Quang Khải. Thế nhưng khi tra xét lại, Trần Thủ Độ vào lúc qua đời đã truy phong làm Vương, truy tước ["Thượng phụ Thái sư"], và tuy ông sinh thời từng là Thái sư nhưng có tước danh khác hẳn (là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sư và Thống quốc thái sư). Xét trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, các kỷ thời đại Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông có đề cập đến Khâm Thiên đại vương Trần Nhật Hiệu, em út cùng mẹ của Trần Thái Tông, sinh thời là Thái úy, sau khi chết (năm 1269) thì được truy tặng là ["Tướng quốc Thái sư"], hoàn toàn khớp với chức danh của văn bia. Như vậy cha Phụng Dương Công chúa theo lý mà nói nên thì là Trần Nhật Hiệu hơn là Trần Thủ Độ. Như vậy thì Phụng Dương Công chúa là em họ Trần Quang Khải.
Từ nhỏ, bà đã nổi tiếng thông minh và rất mực hiền hậu, được Trần Thái Tông đem về cung nhận làm con nuôi, cho phong hiệu Phụng Dương Công chúa. Từ đó Phụng Dương sống trong cung như một hoàng nữ.
Gả cho Chiêu Minh vương
Khi trưởng thành, bà được gả cho Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh vương Trần Quang Khải với nghi lễ dành cho hoàng nữ. Nhưng khi đó, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải lại đang say mê một người thiếp nên lạnh nhạt với bà. Biết chuyện, Trần Nhật Hiệu và Tuệ Chân phu nhân từng nổi giận và tính bề đòi bà về lại nhà, nhưng bà kiên quyết từ chối vì cho rằng đó là đạo vợ chồng.
Đương khi ấy, Chiêu Minh vương Trần Quang Khải có nhiều thê thiếp, nhưng danh nghĩa chỉ có Phụng Dương Công chúa là chính thất. Theo văn bia ghi nhận, Phụng Dương Công chúa đối xử với các thê thiếp của chồng hết sức bao dung. Bà cũng quán xuyến công việc, quản lý tiền bạc cho chồng khiến Trần Quang Khải hết sức hài lòng. Cùng với Linh Từ Quốc mẫu, bà là một phụ nữ quý tộc tiêu biểu của nhà Trần và được các sử gia ghi chép lại. Mùa đông năm Giáp Thân (1284), quân Nguyên sang đánh Đại Việt, Chiêu Minh vương xuống thuyền đi lánh giặc, nửa đêm trong thuyền xảy ra hoả hoạn. Lúc ấy Chiêu Minh vương đương ngủ, Công chúa ngờ là giặc đã tới nơi, đánh thức chồng dậy, đưa cho cái lá chắn và lấy mình che cho ông. Từ đó, bà rất được tán dương.
Bà hay có lòng nhân từ bác ái, không so sánh suy bì đích thứ, người nào có một chút công lao, thì biểu dương trước mặt Chiêu Minh vương; người nào mắc lỗi thì ghé tai bảo nhỏ, ỉm đi cái lỗi đó. Người đời xem đó là tấm lòng không ghen ghét đố kỵ của bà. Đối với người trong họ, bà thường hay nâng đỡ, nhưng với những người bất tài thì chỉ ban của cải chứ không cho chức gì cả. Cuối đời, Trần Quang Khải về nghỉ ở trang riêng tại phủ Thiên Trường, bà cũng theo ông về đấy.
Khoảng năm Tân Mão (1291), ngày 22 tháng 3, Phụng Dương Công chúa qua đời ở Thiên Trường, hưởng thọ 47 tuổi. Thôn Độc Lập, phủ Thiên Trường là nơi chôn cất của Công chúa. Ngày 11 tháng 4 năm Hưng Long nguyên niên (1293), là ngày chôn cất. Người chủ tang Công chúa là con trai thứ của bà Văn Túc vương, đến xin bài minh đem chôn cùng.
Bàn về những điều sở đắc của Thượng tướng Thái sư, để làm bài minh là Thiếu bảo Đinh Củng Viên. Nội dung bài minh ấy:
:''Làm thiện tất hưởng phúc chừ ấy lẽ thường tình,
:''Có lòng nhân ắt thọ chừ trời sao không linh?
:''Sống làm người hiền hạnh chừ chết sẽ lưu danh,
:''Làm dâu cửa nhà tướng chừ đời khen phúc lành.
:''Thôn tên là Độc Lập chừ nơi đặt mộ xanh,
:''Văn chẳng xánh Hàn quân chừ dám làm bài minh.
Nhân cách bà được chính Thái sư Trần Quang Khải đánh giá: "Làm điều thiện, nói điều nhân, sống nết na, chết lưu danh, vượng phu ích tử".
Hậu duệ
Theo "Gia phả Trần tộc Nguyên Thiên Nghệ Tĩnh" do tác giả Trần Thanh San biên soạn năm 2001, và cũng theo nội dung của văn bia, thì Trần Quang Khải và Phụng Dương Công chúa có bảy người con, 4 trai và 3 gái. Tuy nhiên văn bia thực tế lại liệt kê có sự mâu thuẫn.
Người con trai trưởng mất sớm. Phụng Dương xót con nên nhận Quan nội hầu Quốc công (không rõ là ai) làm con nuôi.
Văn Túc vương Trần Đạo Tái, lấy Bảo Tư Công chúa là con của Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang.
Vũ Túc vương (không rõ tên), lấy Bảo Châu Công chúa, con gái thứ ba của Trần Thánh Tông.
Quỳnh Huy Công chúa, con gái cả, húy Thụy Hữu, hai lần gả chồng đều không hòa hợp. Mất sớm.
Quỳnh Tư Công chúa, húy Thụy Nhu, lấy Kiểm hiệu Thái úy Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp, con trai thứ của Thánh Tông. Mất sớm.
Quỳnh Bảo Công chúa, huý Thuỵ Ân, lấy Nhân Quốc vương (không rõ tên) là con trai trưởng của Tĩnh Quốc đại vương.
Quỳnh Thái Công chúa, húy Thụy Tư, làm vợ kế của Kiểm hiệu Thái úy.
Cháu của hai người tính cả nội ngoại là 13 người, trai 7 gái 6, đó là từ những người con dòng dõi đích xuất của Chiêu Minh vương Quang Khải. Trong đó Chân Từ Công chúa, không rõ tên, lấy con trai của Phán thủ Thượng vị Vũ Ninh hầu, tên là Chiểu.
Thái sư Trần Quang Khải và Công chúa Phụng Dương được thờ tại đình làng Cao Đài, Hội được tổ chức ngày 22 tháng 3 âm lịch (là ngày giỗ bà Phụng Dương) hàng năm ở làng Cao Đài, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Phụng Dương Công chúa** (chữ Hán: 奉陽公主; 1244 - 1291) là một nữ quý tộc, một Công chúa nhà Trần. Tuy có danh vị Công chúa nhưng bà không phải là một hoàng nữ mà
**Thái Bình Công chúa** (chữ Hán: 太平公主; 665 - 1 tháng 8, 713), phong hiệu đầy đủ là **Trấn Quốc Thái Bình Công chúa** (鎮國太平公主), công chúa nhà Đường, là một Hoàng nữ của Đường
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Thăng Bình công chúa** (chữ Hán: 昇平公主; ? - 810), họ Lý, không rõ tên, là một công chúa nhà Đường. Trong dân gian, bà nổi tiếng với sự tích [**Túy đả kim chi**; 醉打金枝].
**Thiên Thành công chúa** (天城公主 1235 - 28 tháng 9, 1288), thường được gọi là **Nguyên Từ Quốc mẫu** (元慈國母), là một công chúa nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Bà được biết đến
**Hòa Thạc Đoan Tĩnh Công chúa** (chữ Hán: 和硕端静公主, 9 tháng 6 năm 1674 - 1710), công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ năm của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là Tam Công chúa.
**Văn Thành công chúa** (chữ Hán: 文成公主, 628-680 ), được người Tạng biết tới như là **Gyamoza** (chữ Tạng: ), Hán ngữ là **Hán Nữ thị** (漢女氏) hoặc **Giáp Mộc Tát Hán công chúa** (甲木薩漢公主;
**Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa** (, ; 4 tháng 7 năm 1679 - 4 tháng 4 năm 1735), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ sáu của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là
nhỏ|[[Đền thờ Công chúa Phất Kim ở Hoa Lư]] **Công chúa nhà Đinh** gồm có các con gái của Vua Đinh Tiên Hoàng được ghi chép trong chính sử và dã sử. Nếu như sử
**Cố Luân Ngao Hán Công chúa** (chữ Hán: 固倫敖漢公主; 1621 – 1654), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng trưởng nữ của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Cuộc đời Cố Luân Ngao Hán Công
**Cố Luân Ôn Hiến Công chúa** (chữ Hán: 固伦温宪公主, 1683 - 1702), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ chín của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Ngũ Công chúa.
**Cố Luân Hòa Tĩnh công chúa** (chữ Hán: 固伦和静公主; 10 tháng 8 năm 1756 - 9 tháng 2 năm 1775), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 7 của Thanh Cao Tông Càn Long
**Ngạc Ấp công chúa** (chữ Hán: 鄂邑公主; ? — 80 TCN), cũng gọi **Cái chúa** (盖主), **Cái Trưởng công chúa** (蓋長公主) hoặc **Ngạc Ấp Cái Trưởng công chúa** (鄂邑蓋長公主), là một Hoàng nữ và Công
**Hòa Thạc Khác Thuần Trưởng Công chúa** (chữ Hán: 和碩恪純長公主; 1641 - 1704), cũng gọi **Kim Phúc công chúa** (金福公主), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 14 của Thanh Thái Tông Hoàng Thái
**Trinh Minh Công chúa **(貞明公主, 27 tháng 6 năm 1603 - 8 tháng 9 năm 1685) là công chúa, Vương tộc nhà Triều Tiên, đích trưởng nữ của Triều Tiên Tuyên Tổ, mẹ là Nhân
**Cố Luân Đoan Thuận Trưởng Công chúa** (Chữ Hán: 固倫端順長公主, 1636 - 1650), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 11 Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực. ## Cuộc đời Cố Luân Đoan Thuận
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Thuận Tông** (chữ Hán: 唐順宗; 21 tháng 2, 761 - 11 tháng 2, 806), tên thật **Lý Tụng** (李誦), là vị Hoàng đế thứ 11 hay 13 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
thumb|Liễu Hạnh Công Chúa **Thánh Mẫu Liễu Hạnh** () hay **Liễu Hạnh công chúa** () là một trong những vị Thánh quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên:
**Đường Mục Tông** (chữ Hán: 唐穆宗; 26 tháng 7, 795 - 25 tháng 2, 824), tên thật **Lý Hằng** (李恆) trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 820 đến 824, chỉ được
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Đường Cao Tổ** (chữ Hán: 唐高祖, hiệu là **Lý Uyên** (李淵), biểu tự **Thúc Đức** (叔德), 8 tháng 4, 566 – 25 tháng 6, 635), là vị hoàng đế khai quốc của triều Đường trong
**Đường Duệ Tông** (chữ Hán: 唐睿宗, 22 tháng 6, 662 - 13 tháng 7, 716), húy **Lý Đán** (李旦), là vị Hoàng đế thứ năm và thứ bảy của nhà Đường trong lịch sử Trung
Thuật ngữ **Giáo hội địa phương** () chỉ một cộng đoàn giáo hội gồm các tín hữu được đặt dưới sự lãnh đạo của một giám mục (hoặc tương đương) theo định nghĩa của giáo
**Chiêu Thành Thuận Thánh hoàng hậu** (chữ Hán: 昭成順聖皇后; ? - 693), thường được gọi là **Đường Duệ Tông Đậu Đức phi** (唐睿宗窦德妃) hay **Chiêu Thành Đậu Thái hậu** (昭成窦太后), là một phi tần của
**Đường Hiến Tông** (chữ Hán: 唐憲宗; 17 tháng 3 năm 778 - 14 tháng 2 năm 820), tên thật là **Lý Thuần** (李純), là vị Hoàng đế thứ 12 hay 14 của nhà Đường trong
**Đường Thái Tông** (chữ Hán: 唐太宗, 28 tháng 1 năm 598 – 10 tháng 7 năm 649), tên thật **Lý Thế Dân** (李世民), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Đường trong
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Dương gia tướng** (tiếng Hán: 杨家将) là tiếng tôn xưng dòng họ Dương của danh tướng Dương Nghiệp (? - 986) thời Bắc Tống. Từ là Dương Nghiệp cho đến Dương Tái Hưng (1104 -
là một manga Nhật Bản dài kỳ do Mizuho Kusanagi sáng tác, đăng dài kỳ trên tạp chí _shōjo_ manga của Hakusensha là _Hana to Yume_ từ tháng 8 năm 2009. Manga đã được tổng
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Khổng tước công chúa** hay **Chàng Sisouthone và nàng Manola** () là những nhan đề phi chính thức một huyền thoại Thái tộc thịnh hành từ trung đại trung kì tới nay, có ảnh hưởng
**_Công chúa teen và ngũ hổ tướng_** là một bộ phim hài Việt Nam của đạo diễn Lê Lộc, được công chiếu vào dịp Tết Nguyên Đán năm 2010. Sau thành công về mặt thương
**Trường Bình Công Chúa** (tên tiếng Anh: _Perish in the Name of Love_; tên tiếng Trung: _帝女花_; tên gốc: _Tân_ _Đế Nữ Hoa_) là bộ phim cổ trang dựa trên số phận của Trường Bình
**Thất công chúa** (tiếng Trung:**七公主**, tiếng Anh: **Battle Of The Seven Sisters**) là phim hài tình cảm đô thị hiện đại được chế tác bởi Công ty hữu hạn quảng bá truyền hình Hong Kong.
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Sự biến Phụng Thiên** (chữ Hán: 奉天之難), hay còn gọi **Kính Nguyên binh biến** (泾原兵变), là vụ chính biến quân sự xảy ra thời Đường Đức Tông Lý Quát trong lịch sử Trung Quốc do
**Tạ Văn Phụng** (chữ Hán: 謝文奉; ? - 1865), còn có các tên là **Bảo Phụng,** **Lê Duy Phụng** (黎維奉), **Lê Duy Minh** (黎維明 ## Cuộc đời Tạ Văn Phụng sinh tại huyện Thọ Xương,
nhỏ|phải|Cổng vào chùa Phụng Sơn (chùa gò) **Chùa Phụng Sơn**, tên chữ là **Phụng Sơn Tự**, còn có tên là **chùa Gò**, tọa lạc ở số 1408 Đường 3 tháng 2, phường 2, quận 11,
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
**Đường Kính Tông** (chữ Hán: 唐敬宗, 22 tháng 7, năm 809 - 9 tháng 1, năm 827), tên thật **Lý Đam** (李湛), là vị Hoàng đế thứ 13 hay 15 của nhà Đường trong lịch
**Lý Cảnh** (李璟, sau đổi thành Lý Cảnh 李景) (916 – 12 tháng 8, 961), nguyên danh **Từ Cảnh Thông** (徐景通), còn gọi là **Từ Cảnh** (徐璟) giai đoạn 937 - 939, tự là **Bá
**Phùng Khắc Khoan** (chữ Hán: 馮克寬;1528-1613), tự là **Hoằng Phu**, hiệu là **Nghị Trai**, **Mai Nham Tử**, tục gọi là **Trạng Bùng** (mặc dù chỉ đỗ Nhị giáp tiến sĩ, tức Hoàng giáp); là quan
thumb|Tượng đài Trình quốc công [[Nguyễn Bỉnh Khiêm trong khuôn viên Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hải Phòng. Dưới thời quân chủ của Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số
**Lý Tĩnh** (chữ Hán: 李靖; 571 - 649), biểu tự **Dược Sư** (药师), người huyện Tam Nguyên, Ung Châu (nay là huyện Tam Nguyên, tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc), là tướng lĩnh và khai quốc
**Phêrô Kiều Công Tùng** (sinh ngày 24 tháng 8 năm 1964) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông hiện đang đảm nhận chức vụ Giám mục Chính tòa Giáo phận Phát Diệm
**Cựu Đường thư** (tiếng Trung phồn thể: 舊唐書, giản thể: 旧唐书; bính âm: Jiù táng shū) là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Quốc do sử quan Lưu Hú triều
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử