Theo tài liệu tổng hợp qua khảo sát thực tế và tài liệu thu thập được, làng Chuông là một làng quê truyền thống lâu đời có từ thời xa xưa nằm giữa trung tâm tỉnh Hà Tây cũ nay là Thành Phố Hà Nội. Vào thế kỷ thứ 8 - 791 năm Tân Mùi, theo các bậc cao niên trong làng thì ban đầu làng Chuông có tên là Trang Thì Trung, về sau đông dân hơn nên được mở rộng thành làng. Đầu thời Lên Sơ, làng Chuông đã rất đông đúc. Vào thời nhà Mạc (1527-1593), làng Chuông đã có hai người đỗ đại khoa là Nguyễn Kinh Bang đỗ tiến sỹ khoa năm Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức đời Mạc Đăng Dung (1529) làm quan đến chức Giám sát Ngự sử. Con ông là Nguyễn Việt Mậu (1529-?) đỗ Hoàng giáp khoa Bình Thìn niên hiệu Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên (1556) làm quan đến chức Tự Khanh.
Đầu thế kỷ 20 làng thuộc tổng Thì Trung là một làng lớn, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên (năm Gia Long thứ 14 thì đổi tên thành phủ Ứng Hòa), trấn Sơn Nam Thượng (trấn này đến tháng 10 năm Minh Mạng thứ 12 – Tân Mão – 1831 nhập với Hoài Đức thành tỉnh Hà Nội).
Tháng Chín năm Đinh Mùi (tháng 10 năm 1847), Nguyễn Phúc Thì lên ngôi, năm sau (1848 – Mậu Thân) đặt niên hiệu và Tự Đức thì ngôi làng kiêng tên húy của vua nên xã Thì Trung và tổng Thì Trung phải đổi tên thành Phương Trung cùng các xã trong huyện Thanh Oai. Những dòng họ lớn trong làng là Lê Văn, Phạm. Ở cổng đinh làng có khắc đôi câu đối khẳng định vị thế của làng: “Thì Trung được đất tốt, âm trợ dương phù, ngoài chấn vũ công, muôn thuở trường tồn”.Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Chuông có 25 xóm. Đến tháng 12/1946 đề phù hợp với điều kiện của thôn kháng chiến, xã Phương Trung được chia thành 7 thôn: Tây Sơn – Trung Chính – Liên Tân – Quang Trung – Mã Kiều – Tân Tiến – Tân Dân. Năm 2003, thôn Tân Dân được chia thành Tân Dân 1 và Tân Dân 2. Như vậy, từ một làng gốc đến nay làng Chuông được chia thành 8 thôn. Có thể nói làng Chuông ở nằm ở vị trí khá thuận lợi cho phát triển kinh tế của người dân. Làng nằm sát quốc lộ 21B về phía Đông nên giao thông liên tỉnh khá thuận lợi và phía Tây ven sông Đáy cách làng chừng 700m. Hệ thống quốc lộ 21B, sông Đáy và đường đê sông Đáy đã tạo cho làng Chuông thế thông thương với Hà Đông – Hà Nội, các tỉnh trung du phía Bắc và các huyện khác của tỉnh Hòa Bình. Làng Chuông là một làng nghề nổi tiếng cả nước với truyền thống làm nón lâu đời thông qua sản phẩm nón lá. Người dân làng Chuông sống chủ yếu bằng nghề làm nón lá và làm ruộng. Không nhiều người dân trong làng biết chiếc nón xuất hiện từ khi nào nhưng trong ca dao xưa đã có câu “Nón Chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ”.
Có nhiều câu ca dao thể hiện một sự tri ân với những người làm nón tâm huyết yêu nghề, tạo cho nghề của cha ông một sức sống bền bỉ qua câu ca dạo được truyền tụng trong nhân gian:
“Muốn ăn cơm trắng cá trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông”
Cơ cấu làng, xã, thôn
Làng Chuông là tên nôm của xã Phương Trung, thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội. Làng Chuông ngày nay có 8 thôn, 21 xóm, mỗi xóm từ ngày xưa cách nhau bằng con đường xây gạch bổ cau. Chuông là làng duy nhất trong xã Phương Trung. Tổng diện tích tự nhiên làng là 481,44 ha, gồm 8 thôn là Tây Sơn – Trung Chính – Liên Tân – Quang Trung – Mã Kiều – Tân Tiến – Tân Dân 1 và Tân Dân 2. Làng Chuông có hai lối tiếp cận chính là từ đê sông Đáy phía Tây ranh giới làng và quốc lộ 21B phía Đông ranh giới làng. Con đê sông Đáy chạy qua làng một tuyến đường dân sinh quan trọng và đồng thời cũng có chức năng là chợ của một vùng rộng lớn không chỉ dành riêng cho làng Chuông mà còn có sự tham gia của một số xã xung quanh như Văn La, Kim Thư, Cao Dương. Con đê làng cũng là nơi bà con làm nghề nón lá thường phơi lá lụi ở công đoạn xử lý nguyên liệu. Họ Phạm chúng tôi ở Diễn Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Theo gia phả ghi : cụ Phạm Kinh Bang quê làng Thời Trung , Thanh Oai , Hà Tây sinh được 3 người con trai : ông Phạm Quốc Mậu , ông Phúc Huệ , ông Phạm Toàn Tính .
Ông Phạm Toàn Tính lấy vợ là bà Phạm Thị Vàng , sinh được 6 người con trai 2 người con gái : ông Phạm Phúc Cầu, ông Phạm Phúc Bân , ông Phạm Phúc Thư , ông Phạm Phúc Mẫn , ông Phạm Phúc Thông , ông Phạm Trọng Lữ và bà Phạm Thị Loan , bà Phạm Thị Chiêm .
Ông Phạm Phúc Mẫn năm 20 tuổi lưu cư vào Thôn Cồn Ngọc , Xã Diễn Tháp, huyện Diễn Châu. Hình thành dòng họ Phạm đến nay trên dưới 400 năm. Mong những ai có những thông tin có liên quan liên hệ với chúng tôi để có thêm thông tin để bổ sung gia phả dòng họ.
Theo tài liệu tổng hợp qua khảo sát thực tế và tài liệu thu thập được, làng Chuông là một làng quê truyền thống lâu đời có từ thời xa xưa nằm giữa trung tâm tỉnh Hà Tây cũ nay là Thành Phố Hà Nội. Vào thế kỷ thứ 8 - 791 năm Tân Mùi, theo các bậc cao niên trong làng thì ban đầu làng Chuông có tên là Trang Thì Trung, về sau đông dân hơn nên được mở rộng thành làng. Đầu thời Lên Sơ, làng Chuông đã rất đông đúc.Vào thời nhà Mạc (1527-1593), làng Chuông đã có hai người đỗ đại khoa là Nguyễn Kinh Bang đỗ tiến sỹ khoa năm Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức đời Mạc Đăng Dung (1529) làm quan đến chức Giám sát Ngự sử. Con ông là Nguyễn Việt Mậu (1529-?) đỗ Hoàng giáp khoa Bình Thìn niên hiệu Quang Bảo đời Mạc Phúc Nguyên (1556) làm quan đến chức Tự Khanh. Đầu thế kỷ 20 làng thuộc tổng Thì Trung là một làng lớn, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên (năm Gia Long thứ 14 thì đổi tên thành phủ Ứng Hòa), trấn Sơn Nam Thượng (trấn này đến tháng 10 năm Minh Mạng thứ 12 – Tân Mão – 1831 nhập với Hoài Đức thành tỉnh Hà Nội). Tháng Chín năm Đinh Mùi (tháng 10 năm 1847), Nguyễn Phúc Thì lên ngôi, năm sau (1848 – Mậu Thân) đặt niên hiệu và Tự Đức thì ngôi làng kiêng tên húy của vua nên xã Thì Trung và tổng Thì Trung phải đổi tên thành Phương Trung cùng các xã trong huyện Thanh Oai.
Những dòng họ lớn trong làng là Lê Văn, Phạm. Ở cổng đinh làng có khắc đôi câu đối khẳng định vị thế của làng: “Thì Trung được đất tốt, âm trợ dương phù, ngoài chấn vũ công, muôn thuở trường tồn”. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Chuông có 25 xóm. Đến tháng 12/1946 đề phù hợp với điều kiện của thôn kháng chiến, xã Phương Trung được chia thành 7 thôn: Tây Sơn – Trung Chính – Liên Tân – Quang Trung – Mã Kiều – Tân Tiến – Tân Dân. Năm 2003, thôn Tân Dân được chia thành Tân Dân 1 và Tân Dân 2. Như vậy, từ một làng gốc đến nay làng Chuông được chia thành 8 thô
C ho đến nay Họ vẫn chưa biết thông tin về cụ Phạm Kinh Bang sau đó như thế nào?
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://hophamvietnam.com/7642E9E6_3B7F7F
Theo tài liệu tổng hợp qua khảo sát thực tế và tài liệu thu thập được, làng Chuông là một làng quê truyền thống lâu đời có từ thời xa xưa nằm giữa trung tâm
**Cù Huy Hà Vũ** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1957; nguyên quán xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) là một tiến sĩ luật học, thạc sĩ văn chương, Tiến sĩ Hà
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Sái Kinh** hay **Thái Kinh** (chữ Hán: 蔡京; 1047-1126) là thừa tướng nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người giữ chức vụ quan đầu triều nhiều lần nhất thời Bắc Tống
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
**Phạm Thông** (chữ Hán: 范鏓, ? – ?) tự **Bình Phủ**, người Thẩm Dương vệ , quan viên nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khởi nghiệp và thăng tiến Tổ tiên của Thông
**Nguyễn Văn Thương** (22 tháng 5 năm 1919 – 5 tháng 12 năm 2002) là một nhạc sĩ, nhà giáo, nghệ sĩ người Việt Nam. Có tác phẩm đầu tay từ năm 17 tuổi vào
**Hà Tông Quyền** hay **Hà Tôn Quyền** (chữ Hán: 何宗權, 1798 -1839), sau phải đổi là **Hà Quyền** do kiêng tên húy của Vua Thiệu Trị (Nguyễn Phước Miên Tông), tự là **Tốn Phủ**, hiệu
**Nguyễn Văn Huyên** (1905-1975) là một giáo sư, tiến sĩ, nhà sử học, nhà dân tộc học, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ông cũng là người giữ chức vụ Bộ
**Trần Văn Khê** (24 tháng 7 năm 1921 – 24 tháng 6 năm 2015), còn có nghệ danh **Hải Minh**, là một nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền nổi tiếng ở Việt
**Nguyễn Văn Giao** (chữ Hán: 阮文交; 1811-1863), hiệu **Quất Lâm** (橘林), tự là **Đạm Như**, là một danh sĩ Việt Nam thế kỷ 19. ## Cuộc đời và sự nghiệp Theo Gia phả gia tộc,
**Tô Trân** (蘇珍, 1791-?), là sử gia Việt Nam thời nhà Nguyễn. ## Tiểu sử **Tô Trân** là người ở xã Hoa Cầu (sau đổi là Xuân Cầu), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh. Năm
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
phải|Tượng thờ Doãn Khuê ở đình xã Nghĩa Thành huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định. **Doãn Khuê** (chữ Hán: 尹奎; 1813-1878) là quan Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng giữ các chức
thumb|Khoa bảng Nam Định, 1897 **Khoa bảng Việt Nam** là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về cách tuyển lựa trí
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
Dòng họ Phạm làng Ngù từ khi cụ Phạm Văn Bích dời quê cũ ở Tổng Yên Riệt đến lập nghiệp, từ hai bàn tay trắng gây dựng nên dòng họ đã phát triển hơn
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
**Duy Tiên** là một thị xã cũ nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, Việt Nam. ## Địa lý Thị xã Duy Tiên nằm ở phía bắc tỉnh Hà Nam, nằm cách thành phố Phủ
**Phạm Minh Chính** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó
**Tô Lâm** (sinh ngày 10 tháng 7 năm 1957) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện đang giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
**Phạm Đình Kính** (chữ Hán: 范廷鏡; 1669-1737), tên khai sinh là **Phạm Kim Kính**, là một vị quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Đình Kính là người tài cao, đức
**Kinh điển Phật giáo** có số lượng cực kỳ lớn, thậm chí xưa lấy 84.000 để ước chừng tượng trưng về số lượng pháp uẩn. Kinh văn Phật giáo truyền miệng hoặc được viết ở
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Phạm Công Tắc** (1890-1959), tự là **Ái Dân**, biệt hiệu **Tây Sơn Đạo**, là một trong những lãnh đạo trong việc hình thành, xây dựng, phát triển và kiện toàn hệ thống tôn giáo của
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 张昭, 894 – 972), tự **Tiềm Phu**, người huyện Phạm, Bộc Châu . Ông là sử quan đã hoạt động gần trọn đời Ngũ Đại cho đến đầu đời Tống, phục
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Lê Thanh Vân** (sinh ngày 23 tháng 12 năm 1964) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV nhiệm kì 2021-2026 thuộc đoàn Đại
**Trường Chinh** (tên khai sinh: **Đặng Xuân Khu**; 9 tháng 2 năm 1907 – 30 tháng 9 năm 1988) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Việt Nam.
**Khoa cử** là chế độ tuyển bạt quan viên qua trắc nghiệm khởi phát từ Trung Hoa và trở thành pháp chế trọng yếu bậc nhất Hán tự văn hóa quyển. ## Thuật ngữ "Khoa
**Tông Trạch** (chữ Hán: 宗泽, 1060 – 1128), tên tự là **Nhữ Lâm**, người Nghĩa Ô, Chiết Giang, nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất trong cuộc đấu tranh kháng Kim cuối Bắc Tống,
nhỏ|phải|Nội và ngoại thất đền thờ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị **Phạm Văn Nghị** (chữ Hán: _范文誼_, 1805-1884) hiệu **Nghĩa Trai**; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà
**Đa Minh Hoàng Văn Đoàn** (1912–1974) là Giám mục Việt Nam đầu tiên coi sóc Giáo phận Bắc Ninh. Ông có khẩu hiệu là "Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho các anh em tôi".
**Phaolô thành Tarsus** (còn gọi là **Sao-lơ hoặc Saolê** theo chữ **Saul**, **Paulus**, **Thánh Phaolô Tông đồ**, **Thánh Phaolô** hoặc **Sứ đồ Phaolô**, **Thánh Bảo-lộc** hay **Sao-lộc** (; ; ; khoảng 5 CN – khoảng
Dưới triều nhà Thanh (1644-1911), đã xảy ra hai vụ án lớn có liên quan đến văn tự, làm liên lụy nhiều người, đó là **vụ án Minh Sử** và **vụ án Điềm kiềm ký
**Mao Bá Ôn** (chữ Hán: 毛伯温, 1482 - 1545), tự **Nhữ Lệ**, hiệu **Đông Đường**, sinh quán ở huyện Cát Thủy, Giang Tây, đại thần nhà Minh. Vào thời Gia Tĩnh, ông từng cầm quân
**Thế vận hội Mùa hè 1896** (), tên chính thức là **Thế vận hội Mùa hè lần thứ I**, là sự kiện thể thao quốc tế được tổ chức tại thành phố Athens, thủ đô
**Phạm Thế Hiển** (范世顯, 1803–1861) là một danh thần đời Minh Mạng, chết trong trận Pháp công phá đại đồn Chí Hòa năm 1861. Ông là anh ruột Phó bảng Phạm Thế Húc. ## Tiểu
**Phạm Ngũ Lão** (chữ Hán: 范五老; 1255 – 1320) là danh tướng nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người góp công rất lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần
**Phạm Kỳ Nam** (27 tháng 6 năm 1928 – 3 tháng 3 năm 1984) là đạo diễn phim truyện và phim tài liệu được xem là một trong những cánh chim đầu đàn của nền
**Tổ chức Thương mại Thế giới** là một tổ chức quốc tế có trụ sở chính tại Genève, Thụy Sĩ, có chức năng điều chỉnh và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc
**Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên** (tiếng Anh: _Hung Yen University of Technology and Education_) là một trong sáu Đại học Sư phạm Kỹ thuật của cả nước - đào tạo kỹ
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
nhỏ|phải|Nguyễn Thị Kim Tiến (thứ 3 từ trái sang), tháng 12 năm 2020 tại Hà Nội **Nguyễn Thị Kim Tiến** (sinh năm 1959) là một nữ chính trị gia, tiến sĩ Y khoa, thầy thuốc
**Phạm Huy** (1470 - ?) là một tiến sĩ dưới thời vua Lê Thánh Tông, từng làm đến chức Công Bộ đô cấp. Sau khi ông qua đời, nhiều lần được vua các triều Lê,
**Bùi Bằng Đoàn** (chữ Hán: 裴鵬摶, 11 tháng 9 năm 1889 – 13 tháng 4 năm 1955) là Thượng thư bộ Hình triều Nguyễn (1933-1945), Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ Việt
Xét từ khoa Tiến sĩ thời Lê Hồng Đức bắt đầu dựng bia ở Quốc tử giám, theo nếp người xưa, việc biên chép là để biết được truyền thống khoa cử. Xét những ghi
**Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội** là một cơ sở đào tạo giáo dục tư thục tại Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 405/TTg ngày 14 tháng 6