✨Dòng họ Phạm (làng Ngù, Quang Trung, Ngọc Lặc, Thanh Hóa)

Về dòng họ Phạm ở Làng Ngù, Thanh Hóa

Dòng họ Phạm làng Ngù từ khi cụ Phạm Văn Bích dời quê cũ ở Tổng Yên Riệt đến lập nghiệp, từ hai bàn tay trắng gây dựng nên dòng họ đã phát triển hơn một trăm năm qua. Từ xưa dòng họ đã có tiếng hiếu học, truyền thống “văn quan”, con cháu trong họ luôn tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống Tổ tông, nay có nhiều người học hành đỗ đạt có bằng kỹ sư, cử nhân, bác sỹ, thạc sỹ… Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, con cháu trong dòng họ đã lớp lớp vào bộ đội, nhiều người là chỉ huy cấp cao trong quân đội. Càng tự hào, con cháu dòng họ càng phải có ý thức bảo vệ và phát huy về truyền thống Tổ tông, dòng tộc.

Dòng họ Phạm làng Ngù từ xưa đã từng có gia phả, nhưng do đất nước thời loạn lạc, gia phả của dòng họ bị giặc giã tiêu hủy, tổ tiên phải phiêu bạt, rời bỏ nơi cư trú để mai danh, ẩn tích. Nay xây dựng cuốn gia phả này nhằm đưa việc họ vào nề nếp thống nhất, phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” theo lời dạy của Tiên tổ “Cành lá trên cây vốn ở gốc rễ; Nước trong sông lạch vốn ở ngọn nguồn; Con cháu loài người vốn ở tổ tông; Người thân không thể để mất sự thân ái”, để xây dựng dòng họ ngày càng đoàn kết, thương yêu nhau, giữ gìn những tinh hoa, tập quán tốt đẹp của dân tộc phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong tình hình hiện nay.

Với bổn phận của hậu duệ thành kính Tổ tiên và lòng nhiệt thành muốn góp phần thiết thực cùng Gia tộc giữ gìn và phát huy truyền thống dòng họ, Đại tá, Thạc sỹ Phạm Minh Nhàn, Hậu duệ đời thứ ba của dòng họ tính từ Cụ Tổ Phạm Văn Bích đến lập nghiệp ở làng Ngù, Quang Trung, Ngọc Lặc, Thanh Hóa đã dày công sưu tầm, tham khảo Gia phả của nhiều dòng họ Phạm và các họ khác ở Việt Nam để viết nên cuốn Gia phả dòng họ Phạm làng Ngù này.“Con người có tổ có tôngNhư cây có cội, như sông có nguồn”.Trải qua quá trình hình thành, phát triển lâu dài, dòng họ người Việt đã tạo dựng nên nhiều giá trị văn hóa, tinh thần độc đáo. Trong cuộc sống thường ngày, mối quan hệ họ hàng luôn được đề cao: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Sống với quan hệ họ hàng, người Việt luôn đề cao ý thức đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, cưu mang, đùm bọc, che chở trong nội tộc: “Xẩy cha còn chú, xẩy mẹ bú dì”; “ Cha nó lú nhưng còn có chú nó khôn”…

Một trong những giá trị văn hoá tinh thần tiêu biểu hàng đầu của dòng họ người Việt là tìm về cội nguồn, tổ tông, bản quán. Dù ở đâu và bất cứ khi nào thì ý thức về tổ tiên, trước hết là tổ tiên dòng tộc vẫn là một trong những ý thức sâu sắc nhất, ăn vào tâm trí, ngấm trong máu thịt mỗi người dân Việt. Điều đó biểu hiện rất rõ trong tục thờ cúng tổ tiên, chăm sóc từ đường vào các ngày sóc, vọng, lễ tiết, giỗ, chạp… mỗi người đều thành tâm dâng cúng lễ vật, kính cẩn cầu mong anh linh tiên tổ chứng giám, phù hộ độ trì, cho cháu con, dòng tộc có cuộc sống đoàn kết an lành thịnh vượng.

Mỗi người con dân đất Việt, ở đâu, lúc nào cũng hướng về cội nguồn, luôn “vấn tổ tầm tông” muốn tìm về nguồn gốc tổ tiên để biết công lao và truyền thống tốt đẹp của dòng họ, cho con cháu học tập phát huy, đồng thời để cùng đoàn kết giúp nhau trong cuộc sống. Đó là những điều mà con cháu họ Phạm ở làng Ngù, xã Quang Trung, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa  đã từng ấp ủ, trăn trở thực hiện qua việc lập gia phả cho dòng họ. Họ Phạm là dòng họ lớn, do chiến tranh, loạn lạc mà gia phả của dòng họ đã bị thất lạc. Vì thế, để lập bộ gia phả này phải nhờ vào ký ức và lời kể về tổ tiên của những người lớn tuổi trong dòng tộc và của các bậc cao niên cùng làng xóm, nhờ vào điền dã các mồ mả, tư liệu về bia ký, tư liệu lịch sử, qua đó nghiên cứu, phân tích tổng hợp để có những cứ liệu tương đối chính xác minh chứng cho bộ gia phả.Làng Ngù thuộc xã Quang Trung, cách trung tâm huyện Ngọc Lặc về phía Bắc khoảng 6km theo Đường Hồ Chí Minh, là quê hương dòng họ Phạm sinh sống.

Nơi đây trước kia là vùng rừng núi hoang vu rậm rạp trên thảm thực vật có nhiều loài cây nhưng trong đó có cây Ngù Hương mọc rất nhiều do đó các cụ lấy tên làng là Làng Ngù cho dễ nhớ; đồng đất ở đây phần lớn là đất đồi, ruộng cạn bậc thang là đất sét pha cát, đất đồng chiêm như đồng: Nà Cả, Giếng Bái, Vồng Hang, Cây Thộn… là đất thịt, phần còn lại là đất sình lầy. Nguồn sống của quê hương trước cách mạng tháng 8/1945 chủ yếu là nghề trồng trọt, trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải và chăn nuôi nhỏ lẻ của từng hộ gia đình.Vụ lúa chiêm là chính, vụ mùa trồng trên đồng cạn ngô, khoai lang, đậu, lạc, vừng…. Cuộc sống lam lũ, chật vật, đói ăn, thiếu mặc triền miên. Mùa giáp hạt vào tháng 3 và tháng 8 thường phải lên rừng đào củ Mài, củ Nâu, củ Mớn để ăn thay cơm.

Làng Ngù xưa, đầu làng có nguồn nước Vó Ban trong sạch, mát lành, đã đi vào lời hát ru trong ca dao, dân ca của cả Xứ Mường:

“Ti tôống măng mai xuồng xôồm

Xồm nó xôồm cho kaán vôống đaảc Vò rặc

Xồm nó xôồm cho kaán vôống đaảc Vò pan”.

Ở giữa làng về phía Đông là giếng làng, nền giếng có hai phiến đá tự nhiên, phiến to bên trái là nơi tắm của đàn ông; phiến nhỏ hơn bên phải là nơi tắm của đàn bà. Nét sinh hoạt truyền thống, hồn nhiên, độc đáo của xứ mường khi đó là tục tắm tiên ở giếng làng. Mỗi buổi trưa hè hay khi chiều xuống, từng đoàn người không kể gái, trai, già trẻ, kéo nhau đến giếng, trút bỏ xiêm y để tắm, giặt rất đông vui, nhộn nhịp đó cũng là chuyện đã có hàng trăm năm qua.

Trên giếng làng là cây đa cổ thụ, thân cây rất to, rễ đa tỏa ra xung quanh, từng nhánh rễ cuộn tự nhiên thành từng bậc như từng hàng ghế từ thấp lên cao. Hai nhánh rễ đa choãi ra hai bên, tạo nên hang vòm dưới gốc đa, những khi trời bất chợt đổ cơn mưa, dưới vòm gốc đa có thể trú mưa cho cả hàng chục con người. Cách cây đa cổ thụ vài chục mét là cây đa đền, theo người già kể lại, mấy trăm năm trước, theo lệnh của Nhà Quan, cây đa đền được trồng để thay thế cây đa cổ thụ bị gãy một cành do sét đánh.

Cạnh cây đa đền làng có đình và đền làng, đền làng có sắc phong của Nhà Vua trong các Triều đại phong kiến trước đây. Đền và đình làng đã không còn do một số người quá khích đã đập phá trong thời kỳ cải cách  ruộng đất vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước.

Trong Kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dân làng có nhiều đóng góp sức người, sức của cho cách mạng, đã góp phần vẻ vang vào chiến thắng chung của dân tộc. Đời sống của làng quê có nhiều thay đổi từ khi có Đảng lãnh đạo Đất nước tiến hành công cuộc đổi mới. Cùng với làm ruộng, nhiều hộ gia đình đã chuyển sang trồng cây có giá trị kinh tế cao như: cây mía, cây cao su, cây keo… thu nhập được nâng lên, không còn cảnh đói ăn, thiếu mặc. Người già được chăm sóc, trẻ em được đến trường, con em của làng được học hành, ra đi làm việc ở nhiều nơi trên khắp mọi miền của đất nước.Về tuổi tác Cụ Tổ họ Phạm làng Ngù, con cháu không biết, không có tư liệu gì lưu lại để biết chính xác tuổi Cụ. Nhưng căn cứ vào tuổi thọ của Cụ là 68 tuổi, mất năm 1943, năm sinh có thể dự đoán vào khoảng năm 1875.

Sinh ra trong một gia đình có nhiều đời làm quan, cha mẹ mất sớm, Cụ Phạm Văn Bích ở với người chú, theo chú đi làm quan về cư trú ở vùng Cẩm Châu, Cẩm Thủy. Cụ tham gia nghĩa quân chống Pháp ở vùng Miền Tây Thanh Hóa. Khi giặc Pháp tiến đánh vào vùng Ngọc Lặc lần thứ 3 tại khu vực Truông Đà Gắm (địa danh giáp ranh giữa huyện Ngọc Lặc và Cẩm Thủy ngày nay), cụ Bích cùng với một vài cộng sự đã mưu trí đánh lui cả một cánh quân Pháp, trong khi các cụ chỉ có vũ khí thô sơ (lực lượng khoảng một đại đội) cho đến khi địch rút lui thì cũng là khi hết đạn, hết lương thực. Cụ chạy về nhà ở làng Bái, xã Cẩm Châu. Do bọn theo giặc ở địa phương chỉ điểm, trong một đêm, quân Pháp bất ngờ ập đến bao vây nhà Cụ, trong tình thế bất khả kháng cụ không kịp cứu giúp vợ con từ trên nhà sàn, Cụ nhảy qua cửa sổ, chạy vào rừng. Khi đó, trong nhà có vợ con của Cụ đã bị giặc Pháp sát hại rất dã man, chúng đốt nhà cùng với vợ và hai người con của cụ ở trong ngôi nhà đó.

Từ đó, Cụ Phạm Văn Bích bắt đầu cuộc đời tha hương, lưu lạc, làm nhiều nghề để kiếm sống. Cụ đã đến làng Ngù Mường Rặc (xã Quang Trung ngày nay) gặp được Bà Bùi Thị Đào hai người nên duyên chồng vợ, tạo dựng cơ nghiệp, để có dòng họ Phạm làng Ngù, Quang Trung, Ngọc Lặc đến ngày nay.

Năm 1943, Cụ từ giã cõi trần để về với tổ tiên, hưởng thọ 68 tuổi. Tang lễ của Cụ được người con trai cụ là Phạm Văn Vân tổ chức rất trang trọng, nghi lễ tiến hành trong thời gian 3 tháng 10 ngày mới đưa về an táng ở Gò Đống Sắt. Được 7 năm sau, năm 1950, Bà Bùi Thị Đào cũng theo Cụ về với tổ tiên. Bà Đào hưởng thọ 73 tuổi. Năm 1984, theo ý nguyện của Ông Phạm Quốc Kỷ, con trai trưởng của Cụ Phạm Văn Vân, phần mộ của các cụ được di dời về Gò Đống Cao.Làng Ngù xưa có 5 dòng họ cư ngụ là: Họ Phạm, Bùi, Hà, Đinh, Quách; về sau có thêm các họ Lương, Lê, Nguyễn…. Họ Phạm ở làng Ngù, Cụ Tổ dòng họ là cụ Phạm Văn Bích.

Cụ Phạm Văn Bích sinh ra ở đâu, đến làng Ngù khi nào không được ghi chép lại. Theo người già kể thì tổ tiên Họ Phạm làm quan trong triều Nhà Lê, được Vua ban họ Lê, cư trú ở Cửa Đông, Kinh thành Thăng Long. Sau khi Nhà Lê thất thủ, dòng họ trốn về Mường Bi tỉnh Hòa Bình (nay là huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình), sau đó di cư vào Mường Khà xã Ái Thượng, huyện Bá Thước, từ đó các cụ tiếp tục di chuyển đến làng Khuyên xã Cẩm Bình, và vào làng Bái xã Cẩm Châu huyện Cảm Thủy thuộc Miền Tây Thanh Hoá để lánh nạn. (Dòng Họ có một di chỉ cho con cháu là các ngày lễ tết, giỗ chạp không được dâng các loại cá trên bàn thờ gia tiên, đó là điều cấm kị của dòng Họ Phạm). Từ đó Cụ Phạm Văn Bích tham gia Nghĩa quân trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở vùng Đồi Đô, Đà Gắm. Khởi nghĩa thất bại, bị giặc giết vợ và hai người con, Cụ phải trốn vào Xứ Mường Rặc ở Ngọc Lặc lánh nạn, làm nghề buôn cau, buôn trâu, bò kiếm sống.

Về sau, Cụ gặp được Cụ Bùi Thị Đào là chị họ của Cụ phó Tuần tổng (còn gọi là Trương tuần) ở làng Ngù, do duyên trời định, nên duyên vợ chồng, được Cụ phó Tuần chia cho một số ruộng đất, Cụ sinh sống, lập nghiệp, tạo nên dòng họ Phạm – Làng Ngù, Quang Trung, Ngọc Lặc đến ngày nay. Từ hai bàn tay trắng, các Cụ đã khai  khẩn đất hoang, mở mang điền địa có trâu cày, ao cá, có nhà sàn bằng gỗ, đất ở, đất vườn, đất làm nương rãy, rộng rãi, khang trang. Năm 1960, theo chủ trương cải cách ruộng đất của Đảng sau, gia đình vào hợp tác xã nông nghiệp, toàn bộ ruộng đồng của Cụ để lại đưa vào hợp tác xã có khoảng hơn 10ha, bằng khoảng 1/5 diện tích đất ruộng trồng lúa của cả làng Ngù khi đó.

Cụ Phạm Văn Bích và Cụ Bùi Thị Đào sinh được 6 người con, 3 trai, 3 gái, tên của các con được Cụ đặt lấy từ chữ đầu quê cũ của Cụ khi lánh nạn từ Kinh thành Thăng Long về Miền Tây Thanh Hóa (YÊN – YẾT – VÂN – VA – CẦU – CẨM) để sau này con cháu luôn nhớ về quê hương bản quán. Sinh thời, đất nước trong cảnh thuộc địa, nửa phong kiến, Cụ Bích bảo hai người con trai là Phạm Văn Vân và Phạm Văn Cẩm: “Thời buổi này đang loạn lạc, không lường hết được, nên mỗi đứa phải đi học một loại chữ, người anh là Phạm Văn Vân đi học chữ Nho, người em là Phạm Văn Cẩm đi học chữ Quốc ngữ, có như thế thì anh em hỗ trợ cho nhau, chế độ nào cũng sống được,”.

Cụ Phạm Văn Vân, học chữ Nho, sau mười năm học phải đi lính lệ cho nhà Quan Châu thời gian ba năm từ 1940 – 1942, hết thời hạn cụ trở về quê sinh sống. Trong kháng chiến chống Pháp từ 1946 - 1954, quê nhà ở Ngọc Lặc, Thanh Hóa thuộc vùng giải phóng, Cụ đã động viên em trai là Phạm Văn Cẩm và con trai lớn là Phạm Quốc Kỷ tham gia bộ đội, đánh giặc cứu nước. Bản thân Cụ đã tích cực tham gia dân công vận tải phục vụ kháng chiến, có lần Cụ được giao cùng với hơn chục người vận chuyển tiền cho Chính phủ đi bộ mấy tháng từ Ngọc Lặc qua Tân Lạc, Hòa Bình, Mai Châu, Suối Rút, Phố Vàng ra đến căn cứ cách mạng ở huyện Sơn Dương, Tuyên Quang.

Cụ Phạm Văn Cẩm, con trai út của Cụ Bích đi học chữ Quốc ngữ. Khi học đến lớp 7 thì cách mạng Tháng 8/1945 thành công, Cụ tham gia hoạt động cách mạng ở địa phương, làm Xã đội trưởng xã Quang Trung. Tháng 2/1949 Cụ được chi bộ Thái Nguyên (là tiền thân của Đảng bộ xã Quang Trung) kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam tại nhà ông Quách Văn Đông, làng Giao xã Quang Trung. Năm 1950, Cụ vào bộ đội, quá trình tham gia kháng chiến, hoạt động cách mạng, Cụ phát triển thành cán bộ, được giao là Chính trị viên huyện đội huyện Thường Xuân, Thanh Hóa. Sau hòa bình lập lại 1954, được cử đi học đào tạo sĩ quan chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, năm 1958 được thăng quân hàm sĩ quan. Đến năm 1970, cụ hoàn thành nhiệm vụ phục vụ tại ngũ, về nghỉ hưu sống tại quê nhà.Mối quan hệ gia đình, dòng họ trong Gia tộc họ Phạm, làng Ngù là nhân tố quan trọng góp phần hình thành, phát triển nhân cách của các thành viên trong họ. Trong đó, nếp sống, nếp giao tiếp, ứng xử giữa cá nhân với các tộc viên, với dân làng và xã hội tạo thành một nét đẹp của giá trị đạo đức, tinh thần, văn hóa, xây dựng nên thuần phong mỹ tục trong nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Nối tiếp truyền thống của Tổ tông, các lớp con cháu của dòng họ được học hành dưới mái trường của xã hội mới, nhiều người đã ra nhập quân đội, công an, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến…trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người đã chăm chỉ học hành, không ngừng học tập để đạt đến trình độ cao đẳng, đại học, sau đại học, trình độ bác sỹ chuyên khoa, thạc sỹ khoa học.

Tinh thần hiếu học là nét độc đáo của dân tộc Việt Nam nói chung, của dòng họ Phạm làng Ngù nói riêng. Tổ tiên xưa truyền dạy: “cho con học một con chữ, bằng cho con một đám ruộng bằng 3 bó mạ”; từng gia đình trong dòng tộc đều tôn trọng, đề cao việc học. Nhiều nhà dù khó khăn đến đâu cũng cố gắng cho con theo học. Hàng năm, mỗi kỳ giỗ Tổ vào tháng Giêng, trước bàn thờ Tổ tiên, trước Hội đồng gia tộc và các tộc viên, Trưởng Họ trịnh trọng báo cáo thành tích học tập của con em trong dòng họ. Vào dịp tết Trung Thu hằng năm Hội đồng gia tộc tổ chức trao quà khuyến học cho con cháu có thành tích trong học tập để động viên, nhắc nhở con, cháu gắng sức học hành để ngày một làm rạng danh truyền thống của tổ tông.

Những thành tích nổi bật về thành tích học tập của các tộc viên trong dòng học gồm:

  • Năm 2002, Phạm Minh Nhàn bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ Khoa học Quân sự tại Học viện Quốc phòng.
  • Năm 2002, Phạm Thị Tuyết bảo vệ thành công trình độ Bác sĩ chuyên khoa Cấp I tại Trường Đại học Huế.
  • Năm 2007, Ông Phạm Văn Nam đại diện cho dòng họ tham gia Hội nghị tiêu biểu toàn quốc về “Gia đình hiếu học, dòng họ khuyến học” tại Thủ đô Hà Nội, được tặng Bằng khen của Chủ tịch nước. Năm 2012, dự Hội nghị “Hộ gia đình làm kinh tế giỏi” tại Thủ đô Hà Nội; năm 2013 tham dự Hội nghị toàn quốc về “Những người có uy tín trong già làng, trưởng bản”.
  • Năm 2012, Phạm Văn Trung bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ Khoa học Kỹ thuật & Công nghệ tại Trường đại học Xơ-un Hàn Quốc.
  • Năm 2013, Bùi Thị Nga con gái Ông Bùi Hồng Cường, cháu nội cụ Phạm Thị Cầu bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ kinh tế.
  • Năm 2014, Lê Quỳnh Vương con gái bà Phạm Thị Tuyết, cháu ngoại cụ Phạm Văn Cẩm bảo vệ thành công Luận văn Thạc sĩ kinh tế.
  • Năm 2015 Ông Phạm Văn Nam được chính quyền và nhân dân địa phương tín nhiệm bầu vào giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Quang Trung.
  • Năm 2017 Ông Phạm Văn Nam được chính quyền và nhân dân địa phương tín nhiệm bầu vào giữ chức vụ Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Thạch Lập

Đến năm 2020, dòng họ Phạm làng Ngù đã có 26 người trình độ đại học và sau đại học, 6 thạc sỹ, 1 bác sĩ chuyên khoa cấp 1; có hàng chục người trình độ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Đặc biệt, có những thành viên, nhờ học tập không ngừng, vượt mọi khó khăn để học, vừa làm việc, vừa đi học đã đạt đến trình độ cao, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn của cán bộ, công chức, viên chức; trở thành lãnh đạo quản lý, sĩ quan quân đội, chủ doanh nghiệp, cán bộ, công chức ở địa phương như: Phạm Văn Nam; Phạm Thị Hồng, Phạm Thị Hiền, Phạm Thị Hoài Hương, Phạm Văn Anh, Phạm Văn Linh, Phạm Minh Phương, Phạm Văn Trung, Phạm Văn Phong, Bùi Văn Đức…..Tộc ước gồm phần Mở đầu và 8 chương:

Chương 1. Tổng quan Dòng họ Phạm làng Ngù

Chương 2. Quyền và bổn phận của các thành viên trong họ

Chương 3. Giỗ Tổ

Chương 4. Quản lý tài sản của Gia tộc

Chương 5. Việc hiếu, hỷ

Chương 6. Khuyến học – Khuyến tài

Chương 7. Lập và sử dụng quỹ họ

Chương 8. Tự quản về An ninh trật tự

Chương 9. Khen thưởng và Kỷ luật.

Bản thảo Tộc ước đã được các thành viên Hội đồng Gia tộc nghiên cứu, bàn thảo, bổ sung nhiều lần. Được thông qua tại Hội nghị Hội đồng Gia tộc, có sự tham gia của đại diện các Chi, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hội đồng Gia tộc Phạm Văn Nam (tổ chức tại Nhà thờ họ ngày 17 tháng Giêng năm Ất Mùi 2015.

Tộc ước được phát hành cho các gia đình trong Họ thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2016 Mọi thành viên trong Phạm tộc có bổn phận thực hiện nghiêm các quy định của Tộc ước này. Trong quá trình thực hiện, nếu có điểm nào chưa phù hợp, Hội đồng Gia tộc sẽ xem xét bổ sung hoàn thiện tiếp.

Mời các bạn xem thêm về Tộc ước tại đây

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://hophamvietnam.com/Bc_f2f3cF40f797

Dòng họ Phạm làng Ngù từ khi cụ Phạm Văn Bích dời quê cũ ở Tổng Yên Riệt đến lập nghiệp, từ hai bàn tay trắng gây dựng nên dòng họ đã phát triển hơn
nhỏ|500x500px|Bản đồ hành chính tỉnh Thanh Hóa năm 2015 **Thanh Hóa** là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Lịch sử hành chính Thanh Hóa phản ánh quá trình thay đổi địa danh
**Phan Thanh** (1 tháng 6 năm 1908 – 1 tháng 5 năm 1939) là một chính khách kiêm nhà báo người Việt Nam. Ông là đảng viên Đảng Xã hội Pháp (S.F.I.O), dân biểu của
**Đào Ngọc Dung** (sinh ngày 6 tháng 6 năm 1962 tại huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Bí thư Đảng ủy, Bộ trưởng Bộ
**Chiến tranh Minh – Thanh** hoặc **Người Mãn Châu xâm lược Trung Quốc** (1618–1683) là thời kỳ dài của lịch sử khi người Mãn Châu (Nữ Chân) từng bước xâm lấn và chinh phục lãnh
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Tục thờ Hổ** hay **tín ngưỡng thờ Hổ** là sự tôn sùng, thần thánh hóa **loài hổ** cùng với việc thực hành hoạt động thờ phượng hình tượng con hổ bằng các phương thức khác
**Dân ca Đông Anh** hay **Dân ca, dân vũ Đông Anh** hay **ngũ trò Viên Khê** là hệ thống các trò diễn xướng đi kèm các bài dân ca, lưu hành tại thôn Viên Khê,
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
Đây là danh sách tất cả các huyện (trong đó có cả các huyện tự trị, các kỳ và các kỳ tự trị) cùng với các thành phố cấp huyện () và các quận ()
**Tòa Thánh Tây Ninh** còn được gọi là **Đền Thánh** là một công trình tôn giáo của đạo Cao Đài, tọa lạc tại đường Phạm Hộ Pháp trong khuôn viên Nội ô Tòa Thánh Tây
**Phạm Ngọc Lan** (1934–2019) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Tuy nhiên, ông thường được nhiều người biết đến với tư cách là phi công Việt Nam đầu
Việc **thờ hổ**, sùng bái loài hổ được ghi nhận một cách đa dạng trên khắp các vùng miền của Việt Nam, từ vùng rừng núi sơn cước cho đến vùng đồng bằng và đến
**Hòa Thân** (tiếng Trung: 和珅, bính âm: Héshēn; ; 1 tháng 7 năm 1750 - 22 tháng 2 năm 1799), còn được gọi là **Hòa Khôn**, tự **Trí Trai** (致齋),, hiệu **Gia Nhạc Đường** (嘉樂堂),
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,
**Hồ Tây** (với các tên gọi khác trong lịch sử như **Đầm Xác Cáo**, **Hồ Kim Ngưu**, **Lãng Bạc**, **Dâm Đàm**, **Đoài Hồ**) là hồ tự nhiên lớn nhất thành phố Hà Nội, hiện thuộc
Tượng Thoại Ngọc Hầu trong đền thờ ông tại [[núi Sam]] **Thoại Ngọc hầu** (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761–1829), tên thật là **Nguyễn Văn Thoại** (chữ Hán: 阮文瑞), là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch
**Lê Duy Mật** (黎維樒, ? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lý** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lý của Việt Nam với triều đại nhà Tống của Trung Quốc xung quanh vấn đề
**Tuy Hòa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Phú Yên, Việt Nam. Là đô thị trù phú nằm ở hạ nguồn Sông Ba, dòng sông lớn nhất miền Trung. Đây là trung tâm
**Thanh Hải** (), là một tỉnh thuộc Tây Bắc Trung Quốc. Năm 2018, Thanh Hải là tỉnh đứng thứ ba mươi mốt về số dân, đứng thứ ba mươi về kinh tế Trung Quốc với
**Tôn Khánh Thành** (chữ Hán: 孙庆成, ? - 1812) là tướng lãnh nhà Thanh, từng tham chiến tại Việt Nam. Ông là người Hán Quân Chính Bạch kỳ, nguyên quán Quảng Ninh, Liêu Ninh. _Thanh
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Tăng Cách Lâm Thấm** (chữ Hán: 僧格林沁, ,; 24 tháng 7 năm 1811 - 18 tháng 5 năm 1865), quý tộc Mông Cổ, người Khoa Nhĩ Thấm Tả Dực Hậu kỳ , thị tộc Bác
**Thái Nguyên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Thái Nguyên, nằm bên bờ sông Cầu, là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Thành phố Thái Nguyên là trung
**Danh nhân thời Đinh** là những nhân vật lịch sử đã theo giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, làm quan dưới triều đại nhà Đinh hoặc những người có liên quan
thumb|[[Từ Hi Thái hậu - một ví dụ điển hình của người họ Na Lạp thị triều Thanh.]] **Na Lạp thị** (chữ Hán: 那拉氏; ), hoặc **Ná Lạp thị**, **Nạp Lạt thị** (納喇氏) và **Nạp
**Cát Lâm** (, ), là một tỉnh ở Đông Bắc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Cát Lâm là tỉnh đông thứ hai mươi mốt về số dân, đứng thứ hai mươi tư
**Nguyễn Chí Tài**, thường được biết đến với nghệ danh **Chí Tài** (15 tháng 8 năm 19589 tháng 12 năm 2020), là một cố diễn viên, nhạc sĩ, nhạc công kiêm ca sĩ người Mỹ
**Công chúa** (chữ Hán: 公主) là tước hiệu được sử dụng bởi các quốc gia Đông Á chịu ảnh hưởng từ nền văn minh Trung Hoa, thường được phong cho con gái của Hoàng đế,
**Hùm xám** hay **cọp xám**, **hổ xám** hay **hổ lam**, **hổ xanh** là một thuật ngữ dùng để mô tả về những con hổ có biến đổi về màu sắc bộ lông chuyển thành màu
nhỏ|phải|Một con lừa hoang, trong một khía cạnh văn hóa, chúng biểu tượng cho sự bướng bỉnh, khó bảo **Hình tượng con lừa** được đề cập đến trong văn hóa, tôn giáo, biếm họa và
[[Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang.]] **Trần Đại Quang** là Chủ tịch nước thứ 8 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 2 tháng 4 năm 2016 đến
khung **Hỏa Phụng Liêu Nguyên** (chữ Hán: 火鳳燎原) là một bộ truyện tranh mạn họa của tác giả Trần Mưu (Chen Mou) lấy bối cảnh thời Đông Hán mạt tới Tam quốc. Bộ truyện đã
**Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn** (hay **Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, tiếng Anh: _Immaculate Conception Cathedral Basilica_, tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Saïgon_), thường được
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
thumb thumb|Cổ tranh 21 dây của Trung Quốc thumb|Đàn zither phương Tây thumb|Trình diễn đàn tranh tại Paris **Đàn tranh** (chữ Nôm: 彈箏, , Hán Việt: cổ tranh) còn được gọi là **đàn thập lục**
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Đa Đạc** (; ; 2 tháng 4 năm 1614 – 29 tháng 4 năm 1649) là một trong 12 Thiết mạo tử vương và một tướng lĩnh trong thời kỳ đầu nhà Thanh. Ông có
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Gốm Bát Tràng** là tên gọi chung của các loại đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại làng Bát Tràng, thuộc xã Bát Tràng, thành phố Hà Nội và xã Phụng Công, tỉnh Hưng
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Lê Trang Tông** (chữ Hán: 黎莊宗 1515 - 9 tháng 3 năm 1548), hay còn gọi là **Trang Tông Dụ Hoàng đế** (莊宗裕皇帝), tên thật là **Lê Ninh** (黎寧), là vị Hoàng đế thứ 12
**An Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, An Giang có diện tích: 9.889 km², xếp thứ 13; dân
**Nam Sách** là một huyện cũ thuộc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Nam Sách nằm ở phía bắc của tỉnh Hải Dương, có vị trí địa lý: * Phía đông giáp