✨Sái Kinh

Sái Kinh

Sái Kinh hay Thái Kinh (chữ Hán: 蔡京; 1047-1126) là thừa tướng nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người giữ chức vụ quan đầu triều nhiều lần nhất thời Bắc Tống và bị sử sách nhìn nhận là gian thần.

Thời Tống Thần Tông và Tống Triết Tông

Thăng tiến

Sái Kinh tự là Nguyên Trường (元長), người Tiên Du, Hưng Hóa. Cha ông là Sái Chuẩn. Từ nhỏ Sái Kinh là người thông minh, viết chữ đẹp.

Niên hiệu Hy Ninh thời Tống Thần Tông (1058-1078), Sái Kinh cùng em là Sái Biện lên thi ở kinh thành Khai Phong, cả hai anh em cùng đỗ tiến sĩ.

Sái Kinh được cử đi làm Huyện uý huyện Tiền Đường, còn Sái Biện đi làm chủ bạ Giang Âm. Sái Biện được Thừa tướng Vương An Thạch đang thi hành "Khang Ninh biến pháp" quý mến và gả con gái cho nên thăng tiến rất nhanh, lên chức Trung thư xá nhân kiêm Thị giảng. Sái Kinh tỏ ra là người ủng hộ biến pháp của Vương An Thạch, nhờ có em là con rể Thừa tướng nên ông được thăng làm Thôi quan ở Thư châu. Sau đó ông được mời về triều giữ chức Khởi cư lang.

Sau đó Sái Kinh nhận nhiệm vụ làm sứ giả sang nước Liêu ở phương bắc. Do ngoại giao thành công, ông cũng được thăng làm Trung thư xá nhân như Sái Biện.

Nhờ viết chữ đẹp, Sái Kinh được thăng làm Đãi chế tại Long đồ các và đến niên hiệu Nguyên Hựu (1086-1093) thời Tống Triết Tông, Sái Kinh được bổ nhiệm kiêm thêm chức Tri phủ phủ Khai Phong.

Thời Tống Triết Tông, vua còn nhỏ và Cao thái hậu nhiếp chính. Vương An Thạch thất thế, Tư Mã Quang lên cầm quyền (1086). Sái Kinh được giao nhiệm vụ phải hoàn thành các chế độ cũ về sai dịch. Những người khác đều do thời gian quá gấp gáp không thể hoàn thành, riêng Sái Kinh hoàn thành đúng kỳ hạn nên được phong thưởng và Tri châu Doanh châu đều là những nơi hoang vắng trên biên giới.

Trong thời gian ở Doanh châu, Sái Kinh thay đổi thái độ với biến pháp Vương An Thạch nhằm lấy lòng Tư Mã Quang. Ông không đồng tình với những ai nhắc tới biến pháp. Vì vậy sau một thời gian, những người phe Tư Mã Quang cho rằng có thể dùng được Sái Kinh, bèn đưa ông về làm Tri phủ Thành Đô.

Tuy nhiên, trong số những người thuộc phe Tư Mã Quang, Phạm Tổ Vũ thuyết phục mọi người rằng Sái Kinh chỉ là người xảo quyệt, tạm thời luồn cúi để tiến thân chứ không thực lòng phản đối biến pháp. Vì vậy ông lại bị chuyển sang làm Phát vận sứ ở Giang Hoài, Kinh Triết. Khi đến nhận chức, ông luôn bị các quan lại địa phương đả kích nên rất oán hận Phạm Tổ Vũ.

Lại phục hồi

Năm 1093, Cao thái hậu mất, vua Triết Tông đã lớn, tự mình trông coi triều chính. Triết Tông ghét những người theo tư tưởng thủ cựu của Tư Mã Quang, ủng hộ quan điểm cải cách của Vương An Thạch.

Năm 1097, Chương Đôn cùng Sái Biện vu cáo Tư Mã Quang và những người phe thủ cựu từng có mưu đồ lật đổ Tống Triết Tông. Sái Kinh được giao nhiệm vụ điều tra vụ án này. Kết quả họ bị chém đầu hoặc đi đày xuống Lĩnh Nam. Hành động của ông và Chương Đôn khiến nhiều người căm giận, họ đặt ra câu đồng dao đề bày tỏ sự bất bình, nhưng Hướng thái hậu ngăn lại và đề nghị để ông tiếp tục viết sử sách. Cùng lúc đó Trần Quán tố cáo Sái Kinh thường giao du với thái giám, nội thị mưu đồ xấu, Tống Huy Tông liền biếm ông đi làm Tri phủ Giang Ninh. Một số đại thần khác ghét Sái Kinh lại làm đơn tố cáo ông tỏ ý bất mãn khi bị chuyển chức, vì vậy Huy Tông hạ lệnh truy đoạt các chức vụ trước đây của ông và đưa làm Đề cử tại Động Tiêu cung (một ly cung ở Hàng Châu). Ông vội vã lên đường đến Hàng châu vì sợ bị hại.

Thăng thừa tướng

Không lâu sau, Hướng thái hậu giao lại việc điều hành triều chính cho Tống Huy Tông. Huy Tông ham chơi, thích làm thơ, vẽ tranh, trọng dụng hoạn quan Đồng Quán. Tống Huy Tông đặt ra Ty kim minh lo việc thu thập sách vở cho vua. Đồng Quán được sai làm việc lo việc thu thập sách vở cho vua Tống Huy Tông. Sái Kinh liền bắt mối quan hệ với Đồng Quán. Sái Kinh nhờ Đồng Quán tiến dẫn với Tống Huy Tông. Biết Huy Tông thích nghệ thuật, Sái Kinh ngày đêm viết chữ lên các bức tranh và làm thơ, nhờ Đồng Quán dâng lên vua và nói giúp. Cùng lúc, các thừa tướng Tăng Bố và Hàn Trung Ngạn cũng tranh chấp quyền lực, Tăng Bố muốn có thêm vây cánh chống Hàn Trung Ngạn nên cũng tiến cử Sái Kinh. Vì vậy không lâu sau ông được Huy Tông đổi đi làm Tri châu Định châu, sang năm 1102 được làm Tri phủ ở phủ Đại Danh.

Nghe theo ý kiến của Tăng Bố, Tống Huy Tông thay đổi lập trường trung hòa giữa biến pháp (Vương An Thạch trước đây) và thủ cựu (Tư Mã Quang trước đây) sang quan điểm ngả hẳn theo biến pháp, do đó bãi chức Thượng thư Tả bộc xạ của Hàn Trung Ngạn. Tăng Bố muốn nắm trọn quyền hành, nhưng Tống Huy Tông lại triệu Sái Kinh về phong làm Thượng thư tả thừa.

Tăng Bố vốn chỉ muốn lợi dụng Sái Kinh, không muốn để ông vào làm quan lớn trong triều. Còn Sái Kinh cũng chưa mãn nguyện với chức Thượng thư tả thừa, vì vậy hai người mâu thuẫn nhau.

Tháng 6 nhuận năm 1102, Tăng Bố định đề cử thông gia Trần Hựu Phủ làm Thị lang bộ Hộ, liền bị Sái Kinh phản đối vì tình riêng. Hai bên cãi cọ trước mặt Huy Tông. Không lâu sau Huy Tông bãi chức Tăng Bố ra làm Tri châu ở Nhuận châu, và thăng Sái Kinh lên làm Thượng thư Hữu bộc xạ.

Trả thù đối thủ

Sợ Tăng Bố quay lại trả thù, Sái Kinh vu cáo Tăng Bố tham ô và sai Tri phủ Khai Phong là Lã Gia Vấn bắt các con Tăng Bố tra tấn bắt khai nhận tội, nhưng họ một mực không thừa nhận cha mình tham ô. Sái Kinh bèn sai người đứng ra làm chứng giả để buộc tội Tăng Bố khiến Tăng Bố liên tiếp bị giáng chức và tới năm 1107 chết tại nơi bị giáng chức.

Đầu năm 1103, Sái Kinh được Tống Huy Tông thăng lên làm Thượng thư Tả bộc xạ. Nghe theo đề nghị của ông, Tống Huy Tông lập ra Ty đô tỉnh giảng nghị là cơ quan giúp Thừa tướng trong việc điều hành triều đình. Ông đưa những người thân tín của mình như Ngô Cư Hậu, Vương Hán Chi vào cơ quan này. Từ đó việc thăng chức hay bãi miễn các quan và chi thu tài chính quốc gia đều do Ty đô tỉnh giảng nghị thực hiện và tâu Huy Tông phê chuẩn.

Trên danh nghĩa, Sái Kinh dùng chiêu bài phục hồi biến pháp Vương An Thạch nhưng trên thực tế thì chỉ để làm lợi riêng. Để triệt hạ hoàn toàn phe thủ cựu, Sái Kinh kiến nghị Huy Tông liệt kê tên tuổi những người thuộc phe này gồm 109 người từng theo Tư Mã Quang, khắc tên lên bia đá gọi là "danh sách gian đảng" bêu danh xấu trước cửa Đoan Lễ tại điện Văn Đức để noi gương cho đời sau. Sau đó ông lại phát động một phong trào khắc bia bêu danh những người phe này tại các địa phương trong toàn quốc. Do đợt trả thù này của Sái Kinh, hàng loạt tên tuổi danh sĩ và tác phẩm bị Huy Tông ra lệnh thiêu hủy như Tô Tuần, Tô Đông Pha, Tô Triệt, Tần Quán, Trương Lỗi, Triệu Bổ Chi...

Không chỉ trả thù phe thủ cựu, Sái Kinh quay sang đả kích cả một số người trong phe tân pháp như các học trò của Vương An Thạch là Lục Điền và Lý Thanh Thần vì từng xúc phạm tới ông. Chương Đôn từng phản đối đưa Tống Huy Tông lên ngôi khi Tống Triết Tông mới mất, Sái Kinh lấy lòng Huy Tông cũng khép con cháu Chương Đôn cùng phe thủ cựu và trả thù. Chỉ trong 2 năm từ khi Sái Kinh làm thừa tướng, có gần 1000 người bị hãm hại.

Lấy lòng Huy Tông

Biết Tống Huy Tông thích hưởng lạc, Sái Kinh còn khởi xướng học thuyết Phong hưởng dự đại, tô vẽ cảnh thái bình thịnh trị của đất nước, đề xuất cách ăn chơi hưởng thụ, xui Tống Huy Tông ra sức xây dựng cung điện đền đài, gây lãng phí nhiều tiền bạc của nhân dân. Ông cùng Đồng Quán chủ xướng việc khai thác nhiều đá hoa cương để cung cấp cho Huy Tông xây cái núi giả để thưởng ngoạn gọi là Vạn tuế sơn. Việc tiêu tốn tiền của khiến triều đình tăng thu, việc đánh thuế nhân dân ngày càng nặng, kiểm kê cả đến hạt thóc, quả đậu và từng que củi, khiến nhân dân càng thêm khổ cực. Huy Tông rất vừa ý, bèn phong ông làm Gia quốc công, ban thưởng cho ông khu đất lớn trong kinh thành để xây phủ, sau đó lại ban cho một khu đất nữa ở phía tây kinh thành. Sái Kinh được đất mới lại phá hủy thêm hàng trăm nhà dân đang ở để mở rộng vườn nhà mình. Cả hai khu nhà Sái Kinh đều xây cất và tiêu phí rất tốn kém.

Do quyền thế của Sái Kinh và Đồng Quán, người đời lúc đó gọi Sái Kinh là "tướng ông", Đồng Quán là "tướng bà". Dân gian căm giận Sái Kinh và Đồng Quán bèn đặt ra câu đồng dao: "Đập bẹp ống đồng (chỉ Đồng Quán), đổ đĩa cải thái (chỉ Sái Kinh), cuộc đời sẽ khoái!"

Nhiều lần thăng giáng

Năm 1106, có sao chổi xuất hiện. Tống Huy Tông cho đó là điềm gở với mình, bèn cách chức thừa tướng của Sái Kinh để tránh tai họa. Ông bị điều làm Khai phủ nghi đồng tam ty nhưng được ở lại kinh thành Khai Phong. Trong dân gian nghe tin ông bị cách chức đều rất vui mừng.

Trước khi bị bãi chức, Sái Kinh đề cử người cùng cánh là Triệu Đĩnh Chi vào chức Thượng thư Hữu bộc xạ đang bỏ trống. Triệu Đĩnh Chi làm Thượng thư Hữu bộc xạ một thời gian, sợ Sái Kinh hãm hại mình nên xin từ chức về quê và được Huy Tông phê chuẩn. Đúng lúc đó có điềm sao chổi và Sái Kinh bị bãi chức, Huy Tông bèn lệnh cho Đĩnh Chi nán lại chức Thượng thư Hữu bộc xạ. Triệu Đĩnh Chi thấy Sái Kinh bị bãi chức rất mừng, bèn đứng ra tố cáo những việc làm sai trái của ông. Huy Tông nghe theo Đĩnh Chi, bèn bãi bỏ tất cả chế độ do Sái Kinh thi hành trong thời gian cầm quyền.

Triệu Đĩnh Chi lại tiến cử người cùng cánh là Lưu Quỳ vào triều làm Trung thư thị lang. Hai người ra sức bài xích để loại trừ những người trong phe Sái Kinh còn nhiều trong triều. Sái Kinh bèn xui những người cùng phe như Trịnh Cư Trung, Trịnh Thân biện luận với Huy Tông, ca ngợi công lao của Sái Kinh trước đây. Huy Tông không có chủ kiến, khi nghe những người cùng phe Sái Kinh nói lại cho là phải, và hoài nghi Triệu Đĩnh Chi, Lưu Quỳ. Không lâu sau Lưu Quỳ bị bãi chức đi làm Tri châu Bặc châu rồi tới tháng 1 năm sau (1107) lại đưa Sái Kinh trở lại chức Thượng thư Tả bộc xạ, phong làm Ngụy quốc công.

Sái Kinh trở lại chức cũ, ra sức trả thù những người hại mình. Triệu Đĩnh Chi bị cô lập và bị công kích, tới tháng 3 năm 1107 bị bãi chức Thượng thư Hữu bộc xạ xuống làm Quan văn điện đại học sĩ. Đĩnh Chi buồn rầu và không lâu sau lâm bệnh mất.

Sái Kinh tiếp tục trả thù Lưu Quỳ, sai người tố cáo anh vợ Quỳ là Chương Diên với tội danh tham ô rồi phái Thị ngự sử Thẩm Cơ đi trị tội Chương Diên. Nhưng Thẩm Cơ là người ngay thẳng, tuyên bố Chương Diên vô tội và thả mấy trăm người có liên quan rồi tâu về triều. Sái Kinh tức giận bèn chặn bản tấu đó lại và sai người tâm phúc đến thẩm tra lại, bắt Chương Diên tịch thu gia sản và đày ra đảo. Còn Thẩm Cơ cũng bị vu cáo là "chê bai pháp luật triều đình". Tống Huy Tông tin theo Sái Kinh bèn bãi chức Thẩm Cơ đày đi làm quan ở Tính châu. Thẩm Cơ uất ức lâm bệnh qua đời.

Quan Trai lang ở Thái miếu là Phương Chẩn bất bình với hành động chuyên quyền của Sái Kinh bèn dâng biểu lên Tống Huy Tông vạch tội ông. Tống Huy Tông lại cho rằng lời kể tội là quá đáng và đưa bản tấu cho Sái Kinh xem. Sái Kinh liền kết tội Phương Chẩn vu khống, được Huy Tông đồng tình và ra lệnh đày Phương Chẩn đi Lĩnh Nam.

Trịnh Cư Trung có đóng góp trong việc đưa Sái Kinh trở lại ngôi thừa tướng nên tin tưởng mình sẽ được cất nhắc. Nhưng Huy Tông lại nghe theo đề nghị của Hoàng Kinh Thành giáng chức của Cư Trung, lúc đó Sái Kinh có mặt nhưng không can thiệp gì. Vì vậy Cư Trung oán hận Sái Kinh.

Cuối năm 1107, Tống Huy Tông cho Sái Kinh làm Thái úy phụ trách quân đội và ban cho đai ngọc. Thời Tống Thần Tông, thừa tướng Vương An Thạch cũng được ban đai ngọc nhưng chỉ được đeo trong 3 ngày, còn Sái Kinh đeo ra vào hằng ngày. Ít lâu sau ông lại được Huy Tông phong làm Thái sư nên tỏ ra rất đắc ý

Tuy nhiên vì Sái Kinh lộng quyền, làm nhiều điều trái phép nên sang năm 1109 ông lại bị bãi chức Thừa tướng lần thứ 2, đổi sang làm Sở quốc công, giao việc biên soạn sách "Triết Tông thực lục".

Sau khi ông bị bãi chức lần này, nhiều người lại đua nhau tố cáo ông làm hại nước nhà, trong đó có cả những người cùng phe cũ. Nhưng do có Tống Huy Tông che chở, Sái Kinh không bị trị tội. Sang năm 1110, lại có sao chổi xuất hiện. Ngự sử Trương Khắc Công nhân đó lại dâng biểu nói với Huy Tông rằng điềm xấu đó là tại Sái Kinh nhiều tội ác. Vì vậy Huy Tông giáng chức ông xuống làm thái tử Thiếu bảo, phải đi sang Hàng châu.

Nhưng chỉ qua năm sau (1112), Tống Huy Tông lại nhớ Sái Kinh và triệu về triều, phục chức Thái sư, Thượng thư Hữu bộc xạ và tước Sở quốc công. Ngay khi trở về Khai Phong, Sái Kinh đã giáng chức hơn 30 người tố cáo mình lần trước. Sau đó Tống Huy Tông theo kiến nghị của ông thực hiện cải cách quan chế, theo đó, còn Thượng thư Bộ Hộ là Trần Hiển từ chức về quê ở ẩn.

Trước sự chuyên quyền của Sái Kinh, thái tử Triệu Hoàn rất bất mãn. Sái Kinh muốn lấy lòng thái tử, bèn mang bộ chén uống rượu của nước Đại Thực đến dâng, nhưng bị Triệu Hoàn từ chối thẳng thừng và quát mắng, rồi ném vỡ bộ chén ra sân. Sái Kinh vừa thẹn vừa giận, liền tìm cách trả thù. Ông biết không thể trực tiếp tấn công vào thái tử Hoàn nên nghĩ kế đánh vào những người thân tín của thái tử. Ông kiếm cớ đày viên quan Thái tử chiêm sự ra làm quan ở Trì châu.

Nhiều việc làm của Sái Kinh lại khiến Tống Huy Tông không bằng lòng, nên sang năm 1116 Huy Tông triệu Trịnh Cư Trung về phong làm Thái tể (Thượng thư Tả bộc xạ trước đây) và cử Cư Trung theo dõi cử động của Sái Kinh. Sái Kinh biết vậy liền mượn cớ tuổi cao sức yếu, ít vào triều hơn trước.

Trong khi Sái Kinh và Trịnh Cư Trung ngầm đấu đá nhau, Huy Tông cử Vương Phủ làm Thượng thư tả thừa. Vương Phủ vồn là người cùng phe cũ của Sái Kinh nhưng tới lúc đó lại ngả theo Trịnh Cư Trung, Sái Kinh tức giận muốn làm hại nhưng không được.

Năm 1120, do sự công kích của những người khác cánh, Sái Kinh bị bãi chức thừa tướng lần thứ 3, nhưng vẫn giữ chức Thái sư. Sái Kinh có sáu người con trai, trong đó Sái Du, Sái Thốc, Sái Tiêu đều là đại học sĩ. Năm 1122, con ông là Sái Du theo hoạn quan Đồng Quán đi dẹp cuộc khởi nghĩa Phương Lạp ở Giang Nam có công lao, hai người lại được cử đi đánh Liêu (người Khiết Đan) theo minh ước đã thỏa thuận với nước Kim (người Nữ Chân). Khi chiếm được Yên Kinh của nước Liêu, quân Kim lấy hết của cải và dân chúng, chỉ để lại cho quân Tống thành không. Đồng Quán và Sái Du báo tin thắng trận về triều, được Huy Tông thăng chức.

Giữa lúc đó Vương Phủ mâu thuẫn với thái tử Triệu Hoàn vì Phủ muốn đưa hoàng tử Triệu Khải lên làm thái tử. Sái Du bèn liên kết với Lý Bang Ngạn công kích đuổi Vương Phủ ra khỏi triều đình. Lúc đó Trịnh Cư Trung đã mất nên năm 1125 Tống Huy Tông lại hạ lệnh đưa Sái Kinh lên làm quan đầu triều, cầm quyền điều hành triều chính với tư cách là Thái sư. Vì Sái Kinh đã gần 80 tuổi, mắt bị mù lòa nên cho con ông là Sái Tiêu thay cha lo công việc. Thái tể Bạch Thời Trung và Thiếu tể Lý Bang Nhan đều nghe theo lệnh của cha con Sái Kinh.

Rời khỏi kinh thành

Sau khi từ chức, Sái Kinh suy sụp, ngã bệnh. Năm 1126, quân Kim đánh xuống phía nam. Quân Tống yếu ớt không kháng cự được. Tống Huy Tông vội vã nhường ngôi cho thái tử Triệu Hoàn (tức Tống Khâm Tông) rồi cùng Đồng Quán và Sái Du bỏ kinh thành Khai Phong chạy.

Sái Kinh nghe tin thượng hoàng Huy Tông bỏ chạy, cũng vội rời khỏi kinh thành. Ông mang tất cả của cải có được chở lên thuyền to. Để đề phòng bị cướp, ông mang 40 gánh vàng bạc châu báu gửi người bà con ở Hải Diêm.

Sức ép của quân Kim ngày càng lớn. Tống Khâm Tông buộc phải trọng dụng viên tướng chủ chiến là Lý Cương để ngăn địch. Lúc đó nhiều người dâng sớ xin trị tội Vương Phủ, cha con Sái Kinh, Đồng Quán, Lý Nhan, Chu Diến… hại nước hại dân. Tống Khâm Tông bèn hạ lệnh bắt giết Vương Phủ, Lý Nhan, Chu Diến, và lưu đày Đồng Quán, các con Sái Kinh. Nhưng các đại thần chưa hết bất bình, tiếp tục tố cáo và đòi giết Sái, Đồng. Khâm Tông bèn hạ lệnh cho người đuổi theo giết Đồng Quán cùng Sái Tiêu, Sái Du. Riêng Sái Kinh được ban đặc ân, chỉ bị biếm đi đày ở Lĩnh Nam.

Khi nhận lệnh biếm chức, Sái Kinh đang ở Bặc châu. Bên cạnh ông còn 3 sủng cơ rất đẹp là Mộ Dung thị, Vũ thị và Hình thị. Quân Kim áp sát kinh thành, đòi Nhà Tống nộp 3 mỹ nhân của Sái Kinh. Tống Khâm Tông bèn phái người đến Bặc châu bắt 3 mỹ nhân khiến Sái Kinh rất nuối tiếc.

Qua đời

Nhận lệnh lưu đày, ông dẫn người nhà đi Thiều châu. Dân địa phương oán hận ông làm nhiều điều ác, nên đóng cửa giấu thực phẩm đi không bán, chặn đường mắng nhiếc; còn quan địa phương xua đuổi không cho đi đường lớn bắt đi sang đường nhỏ.

Khi Sái Kinh đến Đàm châu, vì không tìm được chỗ nghỉ nên phải vào chùa Đông Minh tạm trú. Ông bùi ngùi nhớ lại quá khứ và viết bài từ: :Bát thập nhất niên trụ thế, tứ thiên lý ngoại vô gia. Như kim lưu lạc hướng thiên nhai, mộng đáo Dao Trì khuyết hạ :Ngọc diện ngũ hồi mệnh tướng, đồng tình kỷ độ tuyên ma. Chỉ nhân tham luyến thử vinh hoa, tiện hữu như kim sự dã

Dịch: :Sau 81 năm sống trên đời, nay phải đi xa 4000 dặm mà không có nhà để ở. Đang lưu lạc nơi chân trời góc biển mà vẫn mơ mộng về cung điện Dao Trì :Đã 5 lần làm thừa tướng tại triều đình, đã mấy lần xuống chó lên voi. Chỉ vì quá ham cuộc sống vinh quang đó nên ngày nay mới gặp cảnh ngộ này!

Viết bài từ được mấy hôm thì Sái Kinh qua đời, thọ 81 tuổi. Hoàn cảnh lúc đó khó khăn không có quan tài, người nhà mang xác ông gói vào vải xanh xấu mà dân gian thường dùng rồi chôn tại nghĩa địa ở địa phương. Do những việc làm bạo ngược khi còn sống, sau khi ông mất vẫn bị nhiều người oán hận. Người đương thời cho rằng đó là sự báo ứng cho những việc làm ác độc của Sái Kinh khi còn quyền thế.

Về sau, có người thủ hạ của ông cải táng cho ông. Trong 50 năm trên quan trường, Sái Kinh 4 lần đứng ở cương vị quan đầu triều, nếu tính cả lần thăng từ Thượng thư Hữu bộc xạ lên Thượng thư Tả bộc xạ khi ngôi Thượng thư Tả bộc xạ đang bỏ trống thì Sái Kinh đã 5 lần làm quan đầu triều và 3 lần bị mất ngôi vị này; dù tính 4 lần ông vẫn là người giữ chức vụ quan đầu triều (thừa tướng) nhiều lần nhất trong lịch sử nhà Bắc Tống. Ông bị xem là một trong những tội nhân gây ra sự suy vong của nhà Bắc Tống.

Trong Thủy hử

Sái Kinh trong tác phẩm Thủy hử và Hậu Thủy hử của Thi Nại Am và La Quán Trung được mô tả là một gian thần, cùng phe với Cao Cầu, Đồng Quán và Dương Tiễn. Ông cùng họ lũng đoạn triều đình, lừa dối vua Tống Huy Tông, luôn có mưu đồ làm hại những người chính trực, trong đó có các anh hùng Lương Sơn Bạc.

Tại hồi cuối cùng, khi Tống Công Minh, Lư Tuấn Nghĩa cùng các thủ lĩnh Lương Sơn còn sống sót trở về được phong chức, Sái Kinh đồng mưu với 3 người vu cáo họ có mưu đồ làm phản. Huy Tông tỏ ra nghi ngờ, Cao Cầu và Dương Tiễn sai thủ hạ bỏ độc vào đồ ăn uống mà Huy Tông ban cho Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa để sát hại họ. Kết quả kéo theo cái chết của Lý Quỳ, Ngô Dụng và Hoa Vinh. Khi vụ việc bị phát giác do Tống Giang hiện hồn báo mộng cho Huy Tông, Đồng Quán và Sái Kinh đổ trách nhiệm cho người hầu trực tiếp bỏ thuốc độc cho Tống Giang và Lư Tuấn Nghĩa và ám hại người này. Đồng Quán, Cao Cầu, Sái Kinh và Dương Tiễn chỉ bị Huy Tông trách mắng qua loa không bị trị tội.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Sái Kinh** hay **Thái Kinh** (chữ Hán: 蔡京; 1047-1126) là thừa tướng nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người giữ chức vụ quan đầu triều nhiều lần nhất thời Bắc Tống
nhỏ|[[Chợ Bến Thành về đêm, nơi đây là biểu tượng không chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Thành phố Hồ Chí Minh **là tên gọi chính thức từ tháng 7 năm 1976 khi
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
Cấu trúc cắt ngang của một thấu kính từ sử dụng trong [[kính hiển vi điện tử truyền qua.]] **_Thấu kính từ_** (tiếng Anh: _Magnetic lens_) là một loại thấu kính hay một loại thiết
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc** là một nền kinh tế thuộc địa phát triển rất nhanh dưới sự bảo hộ của Pháp. Việt Nam có tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lương
Thấu kính dùng trong [[máy ảnh]] Trong quang học, một **thấu kính** là một dụng cụ quang học dùng để hội tụ hay phân kỳ chùm ánh sáng, nhờ vào hiện tượng khúc xạ, thường
**Trường Đại học Luật khoa Sài Gòn** là một trường thành viên của Viện Đại học Sài Gòn. Trường được thành lập năm 1955 và giải thể vào năm 1976. ## Lịch sử Trường Đại
Dưới đây là **danh sách các quan niệm sai lầm phổ biến**. Các mục trong bài viết này truyền đạt , còn bản thân các quan niệm sai lầm chỉ được ngụ ý. ## Nghệ
**Lâu Kính** (chữ Hán: 娄敬, ? - ?), được Hán Cao Tổ ban theo họ vua là **Lưu Kính** (刘敬), người nước Tề , quan viên, mưu sĩ đầu đời Tây Hán trong lịch sử
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
nhỏ|Ống kính phóng đại [[Nikkor 28-200 mm, hình bên trái ở độ dài tiêu cự 200 mm và hình bên phải ở 28 mm]] **Ống kính zoom** là một bộ các thấu kính ghép lại
nhỏ| **Nguyễn Văn Kỉnh** (28/02/1916 - 26/10/1981) là nhà cách mạng hoạt động trong lĩnh vực tuyên huấn, nhà ngoại giao Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, đảng viên Đảng Cộng
Sơ đồ khối nguyên lý của kỹ thuật DPC **_DPC_** là chữ viết tắt của _Differential Phase Contrast_, dịch sang tiếng Việt có nghĩa là _Tương phản pha vi sai_) là kỹ thuật chụp ảnh
Trong lịch sử lâu đời của đất Sài Gòn, Việt Nam, đã từng có nhiều thời kỳ các nhóm tội phạm có tổ chức thống trị, lúc này hay lúc khác kiểm soát các hoạt
nhỏ|Cảng Sài Gòn nhỏ|Cảng Sài Gòn **Cảng Sài Gòn** là một hệ thống cảng biển tổng hợp cấp quốc gia bao gồm các cảng tại Thành phố Hồ Chí Minh là hệ thống cảng biển
Cấu trúc cây rẽ nhánh tiếp thị đa cấp điển hình. Cá nhân màu xanh ở trên cùng sẽ nhận được tiền thưởng từ việc bán hàng của các thành viên màu đỏ ở tuyến
**Sách I-sai-a** hoặc **sách Ê-sai** (theo cách gọi của Tin Lành) ( ) là một sách trong Kinh Thánh Hebrew và cũng là sách thuộc Cựu Ước trong Kinh Thánh của Kitô giáo. Tác giả
**Sái** hay **Thái** (chữ Hán: 蔡國), là một nước chư hầu nhà Chu tại Trung Quốc trong thời kỳ Xuân Thu. Lãnh thổ nước này hiện tại tương ứng với địa cấp thị Trú Mã
nhỏ|phải|Bia Saigon Special, sản phẩm của Sabeco **Tổng Công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn**, tên giao dịch **SABECO** (_Saigon Beer-Alcohol-Beverage Joint Stock Corporation_), là một doanh nghiệp cổ
**Sông Sài Gòn** là một phụ lưu của sông Đồng Nai ở Nam Bộ Việt Nam. Sông dài 251 km, bắt nguồn từ tỉnh Bình Phước, chảy qua các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Thành phố
thumb|Một ngôi mộ tập thể trong thảm sát Nam Kinh Tổng số người thiệt mạng trong vụ **thảm sát Nam Kinh** là một vấn đề gây tranh cãi trong lịch sử Nhật Bản và Trung
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Cạnh tranh** kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân...) nhằm giành lấy những vị thế tạo nên
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
nhỏ|Cơ chế khả biến thần kinh là cơ chế giúp thích nghi được với sự biến đổi của môi trường, là khả năng phục hồi và tái tạo, hay học một kỹ năng mới.|273x273px **Thích
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
**Thảm sát Nam Kinh**, cũng thường được gọi là vụ "**Cưỡng hiếp Nam Kinh**", là một tội ác chiến tranh do quân đội Nhật Bản tiến hành bên trong và xung quanh Nam Kinh, Trung
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Kinh tế Đàng Trong thời Lê trung hưng** trong lịch sử Việt Nam phản ánh những vấn đề liên quan tới hoạt động kinh tế thuộc vùng đất do chúa Nguyễn quản lý. ## Nông
**Shiloh** (tiếng Hebrew: có thể thay đổi giữa שִׁלוֹ,שִׁילֹה,שִׁלֹה, và שִׁילוֹ) là một thành phố cổ đại ở vùng Samaria, được nhắc đến trong Kinh Thánh Hebrew. Nó đã được nhận diện một cách chắc
**Kính hiển vi tương phản giao thoa vi sai (DIC)**, còn được gọi là **tương phản giao thoa Nomarski (NIC)** hoặc **phương pháp hiển vi Nomarski**, là một kỹ thuật kính hiển vi quang học
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp tin:Emblemata_1624.jpg|nhỏ|275x275px|Mô tả ban đầu của "kính thiên văn Hà Lan" từ năm 1624. **Lịch sử kính viễn vọng** có thể được tìm thấy các dấu vết đầu tiên từ trước khi kính viễn vọng
**Trận Nam Kinh** diễn ra vào đầu tháng 12 năm 1937, là một phần của cuộc chiến tranh Trung – Nhật. Quốc dân Cách mệnh quân và Lục quân Đế quốc Nhật Bản giao chiến
**_Kinh Dịch_** (chữ Nôm: 經易), tên gốc là **_Dịch Kinh_** (chữ Hán: 易經), là một sách bói toán cổ xưa của Trung Quốc, nằm trong hàng ngũ những kinh điển cổ xưa nhất của nền
**Kính hiển vi điện tử truyền qua** (tiếng Anh: _transmission electron microscopy_, viết tắt: TEM) là một thiết bị nghiên cứu vi cấu trúc vật rắn, sử dụng chùm điện tử có năng lượng cao
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
**Quản trị kinh doanh** là việc thực hiện quản lý một hoạt động kinh doanh. Nó bao gồm tất cả các khía cạnh của việc giám thị và giám sát hoạt động kinh doanh và
**Kinh tế sức chú ý** là một cách tiếp cận quản lý thông tin coi sức chú ý của con người như một mặt hàng khan hiếm, áp dụng các lý thuyết kinh tế học
**Bán kính sát thương** là bán kính đường tròn tính từ tâm nổ hoặc điểm chiếu tâm nổ của phương tiện sát thương mà trong phạm vi đó các đối tượng (mục tiêu) bị tiêu
**Hệ thống Kinh tế So sánh** là một nhánh phụ của kinh tế học liên quan đến việc nghiên cứu so sánh các hệ thống tổ chức kinh tế khác nhau, chẳng hạn như chủ
**Trận Sài Gòn** là trận đánh giữa Quân đội Quốc gia Việt Nam và quân Bình Xuyên, diễn ra từ ngày 28 tháng 4 và kết thúc ngày 24 tháng 10 năm 1955. Chiến sự
nhỏ|phải|Một làng dân miền Bắc đi kinh tế mới sau 29 năm ở Tây Nguyên **Xây dựng các vùng kinh tế mới** là một chính sách của Chính phủ Việt Nam nhằm tổ chức, phân
**Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội** là một cơ sở đào tạo giáo dục tư thục tại Việt Nam, được thành lập theo Quyết định số 405/TTg ngày 14 tháng 6
**Đại Chính tân tu Đại tạng kinh** (kanji: 大正新脩大蔵経, romaji: _Taishō Shinshū Daizōkyō_), thường gọi tắt **Đại Chính Tạng** (大正藏, _Taishōzō_) hoặc **Taishō Tripiṭaka** trong tiếng Anh, là bộ Đại tạng kinh bằng chữ Hán