✨Kinh tế Hoa Kỳ
Kinh tế Hoa Kỳ (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là một nền kinh tế phát triển mà còn là nền kinh tế lớn nhất trên thế giới tính theo giá trị GDP danh nghĩa (Nominal) và lớn thứ hai thế giới tính theo ngang giá sức mua (PPP). Mỹ có GDP bình quân đầu người đứng thứ 7 thế giới tính theo giá trị danh nghĩa và thứ 11 thế giới tính theo PPP năm 2016. Đồng đô la Mỹ (USD) là đồng tiền được sử dụng nhiều nhất trong các giao dịch quốc tế và là đồng tiền dự trữ phổ biến nhất thế giới, được bảo đảm bằng nền khoa học công nghệ tiên tiến, quân sự vượt trội, niềm tin vào khả năng trả nợ của chính phủ Mỹ, vai trò trung tâm của Hoa Kỳ trong hệ thống các tổ chức toàn cầu kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 (WWII) và hệ thống đô la dầu mỏ (Petrodollar System). Một vài quốc gia sử dụng đồng đô la Mỹ là đồng tiền hợp pháp chính thức, và nhiều quốc gia khác coi nó như đồng tiền thứ hai phổ biến nhất (de facto currency). Những đối tác thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ bao gồm: Trung Quốc, Canada, Mexico, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc, Anh Quốc, Pháp, Ấn Độ và Đài Loan.
Nền kinh tế Hoa Kỳ phát triển nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên giàu có, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ và năng suất lao động cao. Giá trị nguồn tài nguyên thiên nhiên đứng cao thứ hai thế giới, ước đạt 45 nghìn tỷ đô la năm 2016. Người Mỹ có mức thu nhập hộ gia đình và mức tiền công trung bình cao nhất trong khối các quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), và đứng thứ 4 về mức thu nhập bình quân năm 2010, giảm 2 bậc so với mức cao nhất năm 2007. Hoa Kỳ cũng có nền kinh tế quốc dân lớn nhất thế giới (không bao gồm vùng thuộc địa) kể từ những năm 1890. Hoa Kỳ là nhà sản xuất dầu mỏ và khí gas lớn thứ 3 thế giới. Trong năm 2016, Mỹ là quốc gia có kim ngạch thương mại lớn nhất, cũng như là nhà sản xuất hàng hoá lớn thứ 2 toàn cầu, đóng góp vào một phần năm tổng sản lượng thế giới. Nước Mỹ không chỉ có nền kinh tế lớn nhất, mà còn có sản lượng công nghiệp lớn nhất theo báo cáo Diễn đàn thương mại và phát triển (UNCTAD). Nước Mỹ không chỉ có thị trường nội địa lớn nhất cho các loại hàng hoá, mà còn chiếm vị trí tuyệt đối trong thị trường dịch vụ. Tổng giao dịch thương mại đạt 4,92 nghìn tỷ đô la năm 2016. Trong tổng số 500 công ty lớn nhất thế giới, có 134 công ty đặt trụ sở tại Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là một trong những thị trường tài chính lớn nhất và ảnh hưởng nhất trên toàn cầu. Thị trường chứng khoán New York (NYSE) hiện là thị trường chứng khoán có mức vốn hoá lớn nhất. Các khoản đầu tư nước ngoài tại Mỹ đạt 2,4 nghìn tỷ đô la, trong khi những khoản đầu tư của Mỹ ra nước ngoài vượt 3,3 nghìn tỷ đô la. Nền kinh tế Mỹ luôn dẫn đầu trong các khoản đầu tư trực tiếp và tài trợ cho nghiên cứu và phát triển. Chi tiêu tiêu dùng chiếm 71% GDP năm 2013. Hoa Kỳ có thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới, với chi tiêu trung bình hộ gia đình lớn gấp 5 lần tại Nhật Bản. Thị trường lao động Mỹ đã thu hút người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới và tỷ lệ nhập cư ròng tại đây luôn nằm trong mức cao nhất thế giới. Hoa Kỳ nằm trong bảng xếp hạng một trong các quốc gia có nền kinh tế cạnh tranh và hoạt động hiệu quả nhất theo các báo cáo của Ease of Doing Business, Báo cáo cạnh tranh toàn cầu và các báo cáo khác.
Nền kinh tế Hoa Kỳ đã trải qua đợt suy thoái theo sau khủng hoảng tài chính năm 2007-08, với sản lượng năm 2013 vẫn dưới mức tiềm năng theo báo cáo cơ quan ngân sách quốc hội. Tuy nhiên nền kinh tế đã bắt đầu hồi phục từ nửa sau năm 2009, và tới tháng 10 năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ mức cao 10% xuống còn 4,1%. Vào tháng 12 năm 2014, tỷ lệ nợ công đã chiếm hơn 100% GDP. Tổng tài sản có tài chính nội địa đạt tổng 131 nghìn tỷ đô la và tổng nợ tài chính nội địa là 106 nghìn tỷ đô la.
Lịch sử
Thời kỳ thuộc địa và thế kỷ 18
Lịch sử kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu từ giai đoạn di dân và định cư của người Anh dọc trên bờ biển phía đông nước Mỹ ngày nay trong thế kỷ 17 và 18. Cuộc di dân và định cư này hình thành nên các thuộc địa của Anh ở Mỹ hay còn được gọi là Mười ba thuộc địa, các thuộc địa này đã dành được độc lập từ tay Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 và nhanh chóng phát triển từ nền kinh tế thuộc địa sang nền kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp.
Thế kỷ 19
thumb|Công ty sản xuất và chế tạo Washburn và Moen ở Worcester, Massachusetts, 1876 Trong 180 năm, nền kinh tế Mỹ đã phát triển thành một nền kinh tế công nghiệp hoá hợp nhất với quy mô khổng lồ, chiếm tới một phần năm sản lượng nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là mức thu nhập GDP bình quân đầu người trước kia thấp hơn nay đã vượt qua Anh Quốc cũng như các quốc gia khác. Nhờ chính sách duy trì mức trả tiền công rất cao giúp nền kinh tế thu hút được hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới.
Trong những thập niên đầu 1800, nước Mỹ chủ yếu canh tác nông nghiệp với hơn 80% dân số làm nông. Hầu hết các lĩnh vực sản xuất mới ở giai đoạn đầu của sơ chế nguyên liệu thô với các sản phẩm từ gỗ, dệt may, làm giầy dép. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đã đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và mở rộng kinh tế nhanh chóng trong suốt thế kỷ 19. Những vùng đất rộng lớn trù phú giúp nông dân tiếp tục mở rộng sản xuất canh tác, nhưng các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, dịch vụ, vận tải và lĩnh vực khác cũng đã phát triển với tốc độ cao hơn nhiều. Vì thế mà đến năm 1860 tỷ lệ dân số làm nông nghiệp tại Mỹ đã giảm từ 80% xuống còn xấp xỉ 50%.
Trong thế kỷ 19, những đợt suy thoái kinh tế thường diễn ra tiếp sau các cuộc khủng hoảng tài chính. Cuộc khủng hoảng 1837 nối tiếp sau nó thời kỳ suy thoái 5 năm, với hàng loạt nhà băng đóng cửa và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Vì những thay đổi lớn của nền kinh tế qua nhiều thế kỷ, mức độ thiệt hại của suy thoái kinh tế trong thời kỳ hiện đại khó lòng so sánh được với những đợt suy thoái trước đây. Thời kỳ suy thoái sau chiến tranh thế giới thứ 2 (WWII) có vẻ ít nặng nề hơn so với trước, nhưng nguyên nhân thì chưa được làm rõ.
Thế kỷ 20
thumb|[[Giếng dầu ở Los Angeles, California, 1905]] Những phát minh và cải tiến kỹ thuật đầu thế kỷ đã mở ra canh cửa cho việc nâng cao mức sống của người dân Mỹ. Nhiều công ty đã tăng trưởng lớn nhờ tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô và sự phát triển của thông tin liên lạc để mở rộng mạng lưới ra khắp quốc gia. Việc tập trung phát triển này đã gây ra những lo ngại về nạn độc quyền sẽ kéo theo sự tăng giá cả hàng hoá và giảm sản lượng, tuy nhiên rất nhiều những công ty này đã thành công trong việc cắt giảm mạnh chi phí và tăng sản lượng dẫn đến giá hàng hoá được tiếp tục giảm xuống. Nhiều tầng lớp công nhân làm thuê đã được hưởng lợi trực tiếp từ những công ty phát triển này, cụ thể là hưởng những mức tiền công cao nhất thế giới.
Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP từ những năm 1920.
Học thuyết kinh tế mới của nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes đã mang lại cho các chính trị gia vai trò tiên phong định hướng nền kinh tế, khi mà chi tiêu chính phủ và thuế được kiểm soát bởi Tổng thống và Quốc hội. Hiện tượng tăng trưởng nhảy vọt về dân số đã diễn ra trong thời kỳ 1942-1957, có nguyên nhân từ sự trì hoãn hôn nhân và sinh con trong trước đó trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế, tiếp sau là sự thịnh vượng tăng lên, nhu cầu về nhà ở cho các hộ gia đình tại nông thôn (cũng như nhà ở tại thành thị) và sự lạc quan mới về tương lai. Sự tăng nhảy vọt đạt đỉnh vào năm 1957, sau đó tăng chậm lại. Một thời kỳ tăng cao lạm phát, lãi suất và thất nghiệp sau năm 1973 đã làm giảm đi sự tự tin trong việc sử dụng các chính sách tài khoá để điều chỉnh tốc độ chung của nền kinh tế.
Nền kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng với tốc độ bình quân 3,8% một năm từ 1946 đến 1973, trong khi mức thu nhập trung bình hộ gia đình tăng 74% (hoặc 2,1% một năm).
Đợt suy thoái kinh tế tồi tệ nhất trong những thập kỷ gần đây xảy ra sau khủng hoảng tài chính 2007-08, khi GDP giảm 5% từ mùa xuân 2008 đến mùa xuân 2009. Những đợt suy giảm đáng kể khác xảy ra vào 1957-58, GDP giảm 3,7%; tiếp theo khủng hoảng dầu mỏ 1973, GDP giảm 3,1% từ 1973 đến 1975; và đợt suy thoái 1981-82 GDP giảm 2,9%. Những giai đoạn sau có thể kể đến một số đợt suy thoái nhẹ như: suy thoái 1990-91, GDP giảm 1,3%; suy thoái 2001, GDP giảm 0,3%.
Từ những năm 1970, một vài nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách với kinh tế Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, điều này xảy ra có nguyên nhân từ việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất vốn trước kia đặt tại Mỹ tới các quốc gia này, nơi việc sản xuất được thực hiện với chi phí thấp hơn, đủ để bảo đảm các chi phí vận chuyển và đem lại lợi nhuận cao hơn. Trong các trường hợp khác, một vài quốc gia đã dần học được cách sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ giống như những loại trước kia chỉ được sản xuất tại Mỹ và một số quốc gia khác. Tăng trưởng về thu nhập thực tế của Hoa Kỳ đã chậm lại.
Đầu thế kỷ 21
Nền kinh tế Hoa Kỳ đã trải qua cuộc khủng hoảng năm 2001 với sự phục hồi về việc làm chậm chưa từng có khi số lượng việc làm không thể hồi phục về như mức vào tháng 2 năm 2001 cho mãi đến tận tháng 1 năm 2005.''
thumb|Tổng thống Donald Trump và những nhà lãnh đạo hàng đầu ngành [[công nghiệp ô tô của Mỹ, 2017]] Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Bush (2001-2009) và Obama(2009-2017), các chương trình cứu trợ tài chính và gói kích thích tăng trưởng kinh tế mang tên Keynesian đã được áp dụng thông qua các khoản chi lớn từ ngân sách chính phủ đồng thời Cục Dự trữ Liên Bang duy trì chính sách các khoản vay với lãi suất gần như là không đồng. Các biện pháp kể trên đã khôi phục được nền kinh tế khi mà các hộ gia đình đã gần như trả được hết nợ trong giai đoạn 2009-2012, điều chưa từng xảy ra kể từ năm 1947 đã tạo ra một rào cản đáng kể cho tiến trình hồi phục. và tỷ lệ thất nghiệp trước tháng 9 năm 2015 đều đạt được những con số tích cực nhất trong giai đoạn trước khủng hoảng (cuối năm 2007). Những chỉ tiêu trên tiếp tục đạt được những con số kỷ lục của giai đoạn sau suy thoái ở những ngày sau đó, đánh dầu thời kỳ phục hồi dài thứ 2 trong lịch sử Hoa Kỳ cho đến tháng 4 năm 2018.
Nợ nắm giữ bởi công chúng - 1 chỉ tiêu đo lường nợ quốc gia, đã tăng lên trong suốt thế kỷ 21 từ con số 31% GDP vào năm 2000 lên thành 52% vào năm 2009 và năm 2017 đã đạt mức 77%, khiến Hoa Kỳ trở thành quốc gia có tỷ lệ nợ quốc gia trên GDP cao thứ 43 trong tổng số 207 quốc gia. Sự bất bình đẳng trong thu nhập đạt đỉnh vào năm 2007 và giảm xuống trong thời kỳ Đại khủng hoảng , mặc dù vậy Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có sự chênh lệch về thu nhập cao thứ 41 trên tổng số 156 quốc gia vào năm 2017 (74% các quốc gia có phân phối thu nhập bình đẳng hơn Hoa Kỳ).
Dữ liệu
Bảng dưới đây trình bày các chỉ số kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ giai đoạn 1980-2019.
GDP
Quarterly gross domestic product thumb|Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế tích lũy (đã được điều chỉnh bởi lạm phát) qua những đời Tổng thống Hoa Kỳ (từ đời của Reagan đến Obama). Năm 2017, GDP danh nghĩa của Hoa Kỳ đạt $19,5 nghìn tỷ. GDP danh nghĩa trong quý 1 năm 2018 sau khi đã được điều chỉnh để tính theo năm là $20,1 nghìn tỷ và đây là lần đầu tiên trong lịch sử GDP danh nghĩa của Hoa Kỳ vược mốc $20 nghìn tỷ. Trong đó khoảng 70% GDP là đến từ chi tiêu của người dân trong khi các khoản đầu tư kinh doanh chiếm 18% và chi tiêu của chính phủ chiếm 17% (bao gồm cả chính phủ liên bang, tiểu bang và địa phương nhưng không bao gồm các khoản thanh toán chuyển khoản, chẳng hạn như An sinh xã hội đang được tiêu dùng), xuất khẩu ròng rớt xuống còn -3% do sự thâm hụt thương mại của Mỹ. Real gross domestic product, các chỉ số làm thước đo cho sản xuất và thu nhập đều tăng 2,3% trong năm 2017, so với 1,5% năm 2016 và 2,9% năm 2015. GDP thực tế tính theo quý được điều chỉnh theo năm tăng 2,2% trong quý 1 năm 2018, 4,2% trong quý 2 năm 2018, 3,4% trong quý 3 năm 2018 và 2,2% trong quý 4 năm 2018; trong đó phần trăm tăng trưởng của quý 2 là cao nhất kể từ quý 3 năm 2014. Đồng thời tốc độ tăng trưởng tổng cộng là 2,9% trong năm 2018 là cao nhất trong suốt 1 thập kỷ.
Năm 2017, GDP bình quân thực tế (tính theo tỷ giá Đô-la Mỹ năm 2009) là $52.444 đánh dấu tốc độ tăng trưởng dương liên tục kể tù năm 2010. GDP bình quân có tốc độ tăng trưởng trung bình là 3,0% vào những năm 1960, 2,1% vào những năm 1970, 2,4% trong những năm 1980, 2,2% vào những năm 1990, 0,7% vào những năm 2000 và 0,9% trong giai đoạn từ 2010 đến 2017. Những nguyên nhân cho sự chậm lại của tốc độ tăng trưởng GDP bình quân kể từ năm 2000, được đánh giá theo các nhà kinh tế học là do sự tác động của già hóa dân số, sự sụt giảm về mặt dân số và tỷ lệ tăng trưởng của lực lượng lao động, năng suất lao động tăng trưởng chậm lại, các công ty cắt giảm các khoản đầu tư trong nước, khoảng cách trong thu nhập ngày càng lớn khiến nhu cầu giảm xuống, ngoài ra còn có sự thiếu vắng của các tư tưởng đổi mới và sức lao động giảm sút. . GDP bình quân của Hoa Kỳ cao xếp thứ 20 trên tổng số 220 quốc gia trong năm 2017. . Trong số các Tổng thống Mỹ đương thời thì chính quyền của ông Bill Clinton là đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhất về tốc độ tăng trưởng GDP tích lũy thực tế qua 2 nhiệm kỳ, Reagan xếp thứ 2 và Obama xếp thứ 3. .
Tăng trưởng GDP
Tăng trưởng GDP Hoa Kỳ theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới: Tốc độ tăng GDP thực của Hoa Kỳ là 1,7% một năm từ năm 2000 đến nửa đầu 2014, và tốc độ này bằng một nửa tốc độ tăng trưởng trung bình thời kỳ trước đây cho tới năm 2000.
GDP phân theo ngành
Tỷ trọng GDP danh nghĩa
Bảng tỷ trọng GDP danh nghĩa theo ngành năm 2015 (triệu đô la) ở mức giá cố định năm 2005.
Bảng tỷ trọng GDP danh nghĩa theo ngành năm 2016 (triệu đô la) ở mức giá hiện tại.
Lao động
thumb|Tốc độ tăng trưởng số lượng việc làm được tạo ra qua từng đời Tổng thống Hoa Kỳ được đo bằng tỷ lệ phần trăm thay đổi tích lũy từ tháng sau khi nhậm chức đến cuối nhiệm kỳ. thumb|Biểu đồ minh họa chín biến số kinh tế chính được đo lường hàng năm trong giai đoạn từ 2014–2017. Trong đó giai đoạn 2014–2016 thuộc nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Obama còn năm 2017 thuộc nhiệm kỳ của Tổng thống Trump. Tham khảo các trích dẫn trên trang chi tiết. Có tổng cộng xấp xỉ 160,4 triệu lao động đang được thuê trên khắp Hoa Kỳ trong năm 2017. Chính phủ Mỹ là đơn vị sử dụng nhiều lao động nhất với 22 triệu người, số liệu được ước tính vào năm 2010. Các công ty (doanh nghiệp) quy mô nhỏ là nhà tuyển dụng lớn nhất khi sử dụng tới 37% trong tổng số lao động ở Mỹ. Trong khi đó vị trí thứ 2 thuộc về những công ty, tập đoàn có quy mô với số lượng lao động sử dụng chiếm 38%.
Tỷ lệ số lượng lao động Mỹ được thuê bởi các công ty, doanh nghiệp nhỏ so với bộ phận công ty tập đoàn lớn hầu như không thay đổi qua các năm khi mà một bộ phận các công ty nhỏ trở thành công ty lớn và chỉ có hơn một nửa số công ty nhỏ tồn tại hơn 5 năm.
Hiện có gần 30 triệu công ty kinh doanh quy mô nhỏ tại Mỹ. Các tộc người thiểu số như Người Mỹ gốc Tây Ban Nha, Mỹ gốc Phi, Mỹ gốc Á và người bản địa Mỹ (chiếm 35% tổng dân số Mỹ), sở hữu 4,1 triệu công ty/cơ sở kinh doanh tại Mỹ. Các công ty sở hữu bởi người thiểu số tạo ra gần 700 tỷ đô la danh thu và thuê gần 5 triệu nhân công tại Mỹ. Hoa Kỳ là quốc gia có mức thu nhập của lao động làm thuê cao nhất trong số các quốc gia OECD. Khoảng 284.000 lao động Mỹ có 2 công việc toàn thời gian và 7,6 triệu người có công việc bán thời gian bên cạnh công việc chính toàn thời gian. Ngân hàng thế giới xếp Hoa Kỳ đứng đầu về mức độ dễ tuyển dụng và sa thải nhân công. Hoa Kỳ là nền kinh tế phát triển duy nhất không quy định số ngày nghỉ phép cho người lao động, và nằm trong số ít quốc gia không chi trả lương khi nghỉ phép, cùng với đó là Papua New Guinea, Suriname và Liberia. Năm 2014, Liên hiệp công đoàn thương mại quốc tế chấm điểm Mỹ thứ 4 trên 5+, mức thấp thứ 3 về việc bảo đảm quyền lợi cho công đoàn lao động.
Thất nghiệp
thumb|Biểu đồ đường thể hiện xu hướng tỷ lệ thất nghiệp trong giai đoạn 2000–2017 với các thước đo là U-3 và U-6. Đến tháng 12 năm 2017, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ là 4,1% tương đương 6,6 triệu người. Trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp rộng hơn theo cách tính của chính phủ (bao gồm cả việc làm bán thời gian) là 8,1% tương đương 8,2 triệu người. Những con số này được tính toán trên cơ sở số lượng lực lượng lao động xấp xỉ 160,6 triệu người trên tổng dân số Hoa Kỳ là vào khoảng 324 triệu người.
Từ năm 2009 đến 2013, theo sau thời kỳ suy giảm kinh tế mạnh, những vấn đề phục hồi thất nghiệp dẫn tới mức độ tăng cao kỷ lục của thất nghiệp dài hạn với hơn 6 triệu người tìm kiếm công việc dài hơn 6 tháng (tháng 1 năm 2010). Điều này đặc biệt tác động tới những nhân công nhiều tuổi. Năm tiếp theo kết thúc đợt suy thoái (tháng 6 năm 2009) tại Mỹ, những người nhập cư đã có được 656.000 việc làm, trong khi người lao động sinh tại Mỹ bị mất hơn 1 triệu việc làm.
Vào tháng 4 năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp chính thức là 9,9%, nhưng tỷ lệ thất nghiệp theo cách tính U6 của chính phủ (U-6 unemployment) là 17,1%. Trong thời kỳ giữa tháng 2 năm 2008 và tháng 2 năm 2010, tổng số người làm việc bán thời gian đã tăng thêm 4 triệu lên con số 8,8 triệu người, tương ứng tỷ lệ tăng 83%. Tới năm 2013, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống mức dưới 8%, tỷ lệ thất nghiệp dài hạn và suy giảm thu nhập hộ gia đình vẫn tiếp diễn cùng với việc phục hồi thất nghiệp.
Sau thời kỳ thất nghiệp tại Mỹ tăng cao sau chiến tranh, tỷ lệ này đã giảm xuống mức dưới tỷ lệ cùng loại tại khu vực châu Âu giữa những năm 1980 và duy trì thấp hơn đáng kể từ đó. Trong năm 1955, 55% tổng lao động Mỹ làm việc trong ngành dịch vụ, 30-35% trong ngành công nghiệp, và từ 10-15% trong nông nghiệp. Tới năm 1980, hơn 65% lao động làm việc trong ngành dịch vụ, 25-30% trong công nghiệp và ít hơn 5% trong nông nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp tính theo nam giới tiếp tục cao hơn đáng kể so với nữ giới (9,8% so với 7,5% năm 2009). Tỷ lệ thất nghiệp của người da trắng tiếp tục thấp hơn nhiều so với người Mỹ gốc Phi (8,5% so với 15,8% năm 2009).
Tỷ lệ thất nghiệp ở lao động trẻ là 18,5% tháng 7 năm 2009 (cao nhất kể từ 1948). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ Mỹ gốc Phi lên tới 28,2% tháng 5 năm 2013.
Lao động chia theo khu vực
Lao động tại Hoa Kỳ ước tính tới năm 2012 bao gồm 79,7% trong ngành dịch vụ, 19,2% trong ngành công nghiệp sản xuất, và 1,1% trong khu vực nông nghiệp.
Thu nhập và tài sản
thumb|Thu nhập thực tế trung bình của các hộ gia đình tại Hoa Kỳ (1984–2018) thumb|Tỷ trọng thu nhập (trước thuế và sau thuế) của top 1% hộ gia đình có thu nhập cao nhất cả nước vào các năm 1979, 2007 và 2015 (số liệu từ CBO). Ngày đầu tiên (năm 1979) phản ánh giai đoạn trước năm 1980 với sự phân bố về thu nhập mang tính bình đẳng hơn, năm 2007 là thời kỳ xuất hiện sự bất bình đẳng trong thu nhập cao nhất trong số các giai đoạn sau năm 1980 và con số này của năm 2015 phản ánh chính sách cuea Obama trong việc tăng thuế thu nhập lên các hộ gia đình trong top 1% có thu nhập cao nhất cùng với những tác động còn lại của cuộc Đại suy thoái.. thumb|Danh sách thu nhập trước thuế của các hộ gia đình Hoa Kỳ và bảng phân phối giá trị ròng trong các năm 2013 và 2016, số liệu được lấy từ Cục Dự trữ Liên bang theo [[:en:Survey of Consumer Finances|khảo sát về tài chính của người tiêu dùng.]]
Các thước đo về thu nhập
Theo cục điều tra dân số, mức thu nhập hộ gia đình điều chỉnh theo lạm phát đã đạt mức cao kỷ lục là $59.039 năm 2016.Tuy nhiên, con số này chỉ cao hơn mức kỷ lục từng được thiết lập trước đó vào năm 1998, cho thấy sức mua trong thu nhập của những hộ gia đình thuộc giới trung lưu đã bị đình trệ hoặc giảm xuống trong suốt 20 năm qua. . Trong năm 2013, tổng số tiền mà toàn bộ nhân viên làm việc tại Hoa Kỳ được thưởng là $8,969 nghìn tỷ, trong khi tổng đầu tư tư nhân đạt $2,781 nghìn tỷ.
Hoa Kỳ là quốc gia có mức thu nhập bình quân hộ gia đình cao nhất trong số các quốc gia OECD, và năm 2010 là nước có mức thu nhập bình quân hộ gia đình(median household income) cao thứ 4, xuống 2 bậc so với 2007.
Sự bất bình đẳng trong thu nhập
Bất bình đẳng thu nhập đã trở thành một chủ đề được tranh luận sôi nổi trên toàn cầu. Theo CIA World Factbook, bất bình đẳng thu nhập ở Hoa Kỳ xếp hạng thứ 41 trên tổng số 156 quốc gia vào năm 2017 (tức là 74% quốc gia trong bảng xếp hạng có phân phối thu nhập bình đẳng cao hơn Hoa Kỳ) ). Theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội, 1% hộ gia đình có thu nhập cao nhất kiếm được khoảng 9% tổng thu nhập trước thuế của cả nước vào năm 1979, so với 19% trong năm 2007 và 17% vào năm 2014. Đối với thu nhập sau thuế, những con số này là lần lượt là 7%, 17% và 13%. Những con số này cho thấy tỷ lệ thu nhập mà những người có thu nhập cao nhất kiếm được đã tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn từ năm 1979 đến 2007 và giảm đi phần nào sau cuộc Đại suy thoái khi mà thuế suất đánh vào nhóm những người này đã tăng lên và các chính sách tái phân phối được Tổng thống Barack Obama áp dụng vào năm 2013 (Trong khi Tổng thống Bush Cắt giảm thuế đối với nhóm người này (:en: Bush tax cuts và trợ cấp cho những người có thu nhập thấp hơn thông qua Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền). ]]). Nếu như thực hiện tính lại thu nhập cura năm 2012 bằng cách sử dụng những dữ liệu về phân phối thu nhập của năm 1979 (giai đoạn có sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn) thì 99% hộ gia đình thuộc tầng lớp thấp nhất sẽ có thu nhập trung bình vào khoảng trên $7.100. . Bất bình đẳng thu nhập ở Hoa Kỳ đã tăng lên kể từ năm 2005 cho đến năm 2012 tại hai phần khu vực đô thị Hoa Kỳ.
Nhóm một phần trăm người có thu nhập cao nhất chiếm tới 52% tổng thu nhập giai đoạn từ năm 2009 đến 2015, trong đó thu nhập được định nghĩa là thu nhập từ thị trường không bao gồm những khoản tái phân phối từ chính phủ, và tỷ trọng thu nhập của họ trên tổng thu nhập đã được tăng lên gấp đôi từ 9% năm 1976 lên 20% năm 2011. Theo báo cáo năm 2014 của OECD, 80% tăng trường của tổng thu nhập (từ thị trường) trước thuế thuộc về nhóm 10% cao nhất từ năm 1957 đến 2007.
Một số những nhà kinh tế học và hoạt động đã thể hiện những nghi ngại về vấn đề bất bình đẳng trong thu nhập và coi nó là một vấn đề cần bày tỏ sự 'quan ngại sâu sắc' sự bất công, đồng thời là một mối hiểm hoạ đe dọa sự ổn định của nền dân chủ và cả xã hội hoặc là dấu hiệu đánh dấu sự suy thoái của cả một quốc gia. Giáo sư Robert Shiller đến từ Đại học Yale cho rằng "Vấn đề quan trọng nhất mà chúng ta đang phải đối mặt ngày nay chính là sự gia tăng bất bình đẳng về thu nhập tại Hoa Kỳ và những nơi khác trên thế giới." Giáo sư Thomas Piketty của đại học kinh tế Paris cho rằng kể từ sau những năm 1980, sự gia tăng của bất bình đẳng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng 2008 bằng việc gây ra sự bất ổn cho nền tài chính quốc gia. Năm 2016, nhà kinh tế học Peter H. Lindert và Jeffrey G. Williamson khẳng định rằng bất bình đẳng đã tăng lên ở mức độ cao nhất kể từ khi nước Mỹ lập quốc. Năm 2018, bất bình đẳng thu nhập ở Hoa Kỳ đã đạt con số cao kỷ lục ghi nhận bởi Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ khi mà chỉ số Gini của quốc gia này là 0,485. .
Một số khác không đồng tình với quan điểm trên, cho rằng vấn đề bất bình đẳng là một sự đánh lạc hướng chính trị để người ta không nghĩ tới những vấn đề thực sự như thất nghiệp dài hạn và tăng trưởng chậm chạp. Giáo sư kinh tế Tyler Cowen của đại học George Mason đã gọi bất bình đẳng là một "con cá trích đỏ", đó là những nhân tố tăng lên trong một quốc gia có thể đồng thời giảm xuống trên toàn cầu, và nói rằng những chính sách phân phối lại nhằm làm giảm bất bình đẳng có thể gây ra nhiều hại hơn là lợi vì liên quan đến vấn đề thực sự của mức tiền công cố định. Robert Lucas Jr. cho rằng vấn đề nổi bật nhất liên quan đến mức sống của người Mỹ là chính phủ đang tăng quy mô quá mức, và những chính sách gần đây dịch chuyển theo hướng chính sách thuế của Châu Âu, chi tiêu chính phủ, và các quy định có thể một cách mập mờ đặt nước Mỹ vào một quỹ đạo thấp hơn đáng kể mức thu nhập của Châu Âu. Một vài nhà nghiên cứu đã tranh luận về mức độ chính xác của những dữ liệu liên quan đến xu hướng bất bình đẳng, và nhà kinh tế học Michael Bordo và Christopher M. Meissner cho rằng bất bình đẳng không thể là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính năm 2008.
Theo một báo cáo của Vụ Khảo cứu Quốc hội, thuế trên thặng dư vốn giảm là nhân tố lớn nhất dẫn đến việc tăng bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ từ năm 1996 đến 2006.
Đến năm 2010, Hoa Kỳ có mức chênh lệch về thu nhập đứng thứ 4 trong số các quốc gia OECD, sau Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico và Chile. Viện Brookings nói rằng trong tháng 3 năm 2013, bất bình đẳng thu nhập gia tăng và trở thành vĩnh viễn, làm giảm đáng kể khả năng dịch chuyển xã hội của Hoa Kỳ. OECD xếp Mỹ đứng thứ 10 trong dịch chuyển xã hội, đứng sau các nước Bắc Âu, Úc, Canada, Đức, Tây Ban Nha và Pháp. Trong số các quốc gia phát triển lớn, chỉ có Italy và Anh Quốc có mức dịch chuyển xã hội thấp hơn. Điều này một phần xoáy sâu vào tình trạng nghèo đói của những người dân Mỹ, dẫn đến những trẻ em ngheo bị bỏ mặc bất lợi về kinh tế, mặc dù những nhà kinh tế khác quan sát một sự tăng lên ở Mỹ là khó về mặt toán học do khoảng cách thu nhập cao hơn và phân bổ rộng hơn so với các quốc gia có khoảng khách thu nhập hẹp, thậm chí người dân sẽ muốn giữ sự dịch chuyển đó ở Mỹ và không quan tâm tới những so sánh quốc tế có ý nghĩa như thế nào.
Đã có sự mở rộng về khoảng cách giữa năng suất lao động và thu nhập trung bình kể từ những năm 1970. Nguyên nhân chủ yếu là do sự sụt giảm số giờ làm việc trung bình tính theo đầu người. Nguyên nhân khác bao gồm sự tăng lên của phúc lợi phi tiền mặt như là sở hữu cổ phần công ty (Không tính vào thu nhập), người nhập cư gia nhập lực lượng lao động, những sai lệch về mặt thống kê bao gồm việc sử dụng những cách thức điều chỉnh lạm phát khác nhau, năng suất lao động tăng không tương đồng với các khu vực sử dụng ít lao động, thu nhập chuyển dịch từ lao động sang vốn, sự chênh lệch mức tiền lương của lao động có kỹ năng khác nhau, năng suất lao động bị thổi phồng một cách sai lệch bởi việc gia tăng công nghệ và những vấn đề thuộc về đo lường mức giá nhập khẩu, và/hoặc một thời kỳ điều chỉnh tự nhiên theo sau sự tăng lên của thu nhập trong giai đoạn hậu chiến tranh.
Theo một nghiên cứu năm 2018 của OECD, trong bối cảnh những người lao động thất nghiệp và có rủi ro thất nghiệp hầu như không nhận được bất cứ sự hỗ trợ nào của chính phủ và bị cản trở bởi hệ thống thương lượng tập thể yếu kém, Hoa Kỳ có sự bất bình đẳng trong thu nhập và tỷ lệ người lao động có thu nhập thấp cao hơn hầu hết các quốc gia phát triển khác. . Theo một nghiên cứu vào năm 2020 của RAND Corporation thì 1% những người có thu nhập cao nhất ở Hoa Kỳ lấy đi mất $50 nghìn tỷ từ 90% người có thu nhập ở mức đáy xã hội trong giai đoạn 1975 đến 2018. .
Giá trị ròng của hộ gia đình và bất bình đẳng giàu nghèo
Tính đến Quý 4 năm 2017, tổng giá trị tài sản ròng hộ gia đình tại Mỹ đạt mức cao kỷ lục là $99 nghìn tỷ, tăng $5,2 nghìn tỷ so với năm 2016. Mức tăng này phản ánh cả mức tăng của thị trường chứng khoán và mức tăng giá nhà ở và đây là mức tăng kỷ lục từng được thiết lập kể từ quý 4 năm 2012. . Nếu chia đều $99 nghìn tỷ đại diện cho trung bình $782.000 cho mỗi hộ gia đình (cho khoảng 126,2 triệu hộ gia đình) tương đương $302.000 cho mỗi người. Tuy nhiên, số trung vị của toàn bộ hộ gia đình (tức là một nửa số gia đình trên và dưới mức này) là 97.300 đô la vào năm 2016. 25% gia đình dưới cùng có giá trị ròng trung bình bằng 0, trong khi các hộ gia đình trong khoảng từ 25% đến 50% có giá trị ròng trung bình là $ 40.000. .
Sự chênh lệch giàu nghèo còn tồi tệ hơn so với sự bất bình đẳng về thu nhập khi mà nhóm 1% hộ gia đình giàu nhất sở hữu xấp xỉ 42% giá trị tài sản ròng vào năm 2012, so với 24% vào năm 1979. . Theo một báo cáo tháng 9 năm 2017 của Cục Dự trữ Liên bang, chênh lệc giàu nghèo đang ở mức cao kỷ lục; thống kê chỉ ra rằng 1% người giàu nhất kiểm soát tới 38,6% tài sản của cả nước vào năm 2016. . Tập đoàn tư vấn Boston (Boston Consulting Group) đưa ra báo cáo vào tháng 6 năm 2017 dự báo 1% người giàu nhất ở Mỹ sẽ kiểm soát 70% tài sản của cả nước vào năm 2021. .
10% người giàu nhất sở hữu 80% tổng tài sản tài chính. Sự bất bình đẳng trong thu nhập ở Hoa Kỳ là cao hơn hầu hết các nước phát triển khác trừ Thụy Sĩ và Đan Mạch. Sự giàu có có được từ tài sản thừa kế có thể giúp giải thích tại sao nhiều người Mỹ trở nên giàu có và có được một "khởi đầu thuận lợi". Vào tháng 9 năm 2012, theo Viện Nghiên cứu Chính sách, "hơn 60%" trong tổng số 400 người Mỹ giàu nhất của Forbes giàu lên từ việc nhận được tài sản thừa kế. Tài sản hộ gia đình trung bình đã giảm 35% ở Hoa Kỳ, từ 106.591 đô la xuống còn 68.839 đô la từ năm 2005 đến năm 2011 do cuộc Đại suy thoái nhưng sau đó đã phục hồi như đã nêu ở trên.
Khoảng 30% toàn bộ dân số là triệu phú trên toàn thế giới sống ở Hoa Kỳ (tính đến năm 2009). ). Cơ quan Tình báo kinh tế ước tính vào năm 2008 rằng có tổng cộng 16.600.000 triệu phú sống ở Hoa Kỳ và có khoảng 34% tỷ phú trên thế giới là người Mỹ (năm 2011). ).
Sở hữu nhà ở
thumb|Quang cảnh khu vực ngoại ô thành phố [[San Diego từ trên không]]
Theo thống kê thì mỗi người dân Mỹ có 65 mét vuông nhà ở (tương đương 700 feet vuông), tức nhiều hơn từ 50-100% mức trung bình ở các quốc gia có thu nhập cao khác. Tương tự, tỷ lệ sở hữu các loại đồ dùng và tiện nghi là tương đối cao so với các quốc gia khác.
Giữa tháng 6 năm 2007 và tháng 11 năm 2008 cuộc suy thoái kinh tê toàn cầu dẫn đến sự sụt giảm giá tài sản trên khắp thế giới. Tài sản sở hữu bởi người Mỹ đã mất khoảng một phần tư giá trị. Từ thời kỳ đỉnh điểm vào Quý 2 năm 2007, giá trị tài sản của các hộ gia đình đã giảm 14 nghìn tỷ đô la. Cục dự trữ liên bang (Fed) nói rằng vào cuối năm 2008, tổng số nợ của các ngành phi tài chính là 33,5 nghìn tỷ đô la, bao gồm nợ của các hộ gia đình là 13,8 nghìn tỷ đô la.
Báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Pew nói rằng, trong năm 2016, lần đầu tiên trong suốt 130 năm, người Mỹ độ tuổi từ 18 đến 34 phải sống với cha mẹ mình nhiều hơn bất kỳ giai đoạn khủng hoảng nhà ở nào. Việc sở hữu nhà ở gần như ngoài tầm với của phần lớn những người trưởng thành trẻ tuổi.
Lợi nhuận và tiền lương (tiền công)
Vào tháng 3 năm 2013, khi chỉ số chứng khoán công nghiệp Dow Jones lập mức cao kỷ lục, thu nhập hộ gia đình và cá nhân đều xuống thấp đáng kể so với thời kỳ cao đỉnh điểm 2007. Trong năm 1970, tiền lương chiếm 51% GDP Hoa Kỳ và lợi nhuận ít hơn 5%. Nhưng tới năm 2013, tiền lương đã giảm xuống chỉ còn 44% GDP, trong khi lợi nhuận tăng gấp đôi lên mức 11%. Mức thu nhập cá nhân sau thuế điều chỉnh theo lạm phát đã tăng đều đặn ở Mỹ từ 1945 đến 2008, nhưng đã giữ nguyên kể từ đó.
Trong năm 2005, mức thu nhập bình quân của người dân độ tuổi trên 18 là 3.317 đô la cho phụ nữ thất nghiệp, có gia đình gốc Á cho tới 55.935 đô la cho đàn ông có việc làm toàn thời gian gốc Á. Theo cục thống kê dân số Mỹ, nam giới có mức thu nhập cao hơn phụ nữ trong khi người Mỹ gốc châu Á và Âu kiếm nhiều tiền hơn người Mỹ gốc Phi và Tây Ban Nha. Thu nhập bình quân chung của tất cả người dân trên 18 tuổi là 24.062 đô la (và 32.140 đô la cho độ tuổi từ 25 trở lên) trong năm 2005.
Thu nhập bình quân tổng thể của 155 triệu người độ tuổi trên 15 có việc làm trong năm 2005 là 28.567 đô la. Để tham khảo, mức tiền công tối thiểu năm 2009 là 7,25 đô la một giờ hoặc 15.080 đô la cho 2.080 giờ trong một năm làm việc. Tiền lương tối thiểu chỉ vừa cao hơn mức nghèo đói của người độc thân và khoảng 50% mức nghèo đói của một gia đình 4 người.
Một khảo sát vào tháng 8 năm 2017 bởi CareerBuilder cho thấy 8 trên 10 công nhân Mỹ sống trong tình trạng tiền lương chỉ vừa đủ trả các chi phí sinh hoạt. Người phát ngôn Mike Erwin của CareerBuilder đã chỉ trích "tiền lương thấp cố định và sự tăng giá mọi mặt hàng từ giáo dục đến nhiều hàng hoá tiêu dùng thiết yếu". Theo một khảo sát của Cục bảo vệ người tiêu dùng liên bang về tình trạng sức khoẻ tài chính của công dân Hoa Kỳ, gần tới một nửa số người gặp khó khăn trong việc chi trả hoá đơn, và hơn một phần ba số người đang gặp nhiều khó khăn như không thể có chỗ ở, hết thực phẩm, hoặc không đủ tiền để trả tiền viện phí.
Việc phân bổ thu nhập hộ gia đình tại Mỹ trở nên bất công hơn trong suốt giai đoạn sau phục hồi kinh tế 2008, lần đầu tiên xảy ra tại Mỹ nhưng xu hướng chung với những giai đoạn phục hồi kinh tế sau khủng hoảng kể từ 1949. Bất bình đẳng về thu nhập ở Mỹ đã tăng từ 2005 đến 2012 ở 2 trên 3 khu trung tâm.
Nghèo khó
thumb|upright=1.8|Số người nghèo và tỷ lệ nghèo khó ở Hoa Kỳ giai đoạn 1959-2016 Khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo tại Mỹ lớn hơn bất cứ quốc gia phát triển nào khác. Bắt đầu từ những năm 1980 tỷ lệ nghèo tương đối liên tục vượt cao hơn so với tỷ lệ tương tự tại các quốc gia giàu có khác, mặc dù các phân tích sử dụng những bộ dữ liệu chung để so sánh thường thấy rằng Hoa Kỳ có tỷ lệ nghèo tuyệt đối thấp hơn hầu hết các quốc gia. Trong năm 2013, trẻ em nghèo đã tăng mức kỷ lục, với 16,7 triệu trẻ em sống trong tình trạng thiếu thốn lương thực, khoảng 35% cao hơn mức năm 2007. Đến năm 2015, 44% trẻ em trên toàn nước Mỹ sống trong những gia đình có thu nhập thấp.
Trong năm 2014, 14,8% dân số Mỹ sống trong nghèo khó. Theo một khảo sát bởi tờ báo Associated, 4 trong 5 người Mỹ trưởng thành gặp khó khăn với tình trạng không có việc làm, tình trạng cận nghèo hoặc phải dựa vào trợ cấp trong ít nhất một phần đời của họ. Báo cáo của Feeding America chỉ ra trong năm 2014 có 49 triệu người Mỹ lâm vào tình trạng không bảo đảm về đủ thực phẩm. Trong tháng 6 năm 2016, tổ chức IMF đã cảnh báo Hoa Kỳ rằng tỷ lệ nghèo khó tăng cao cần được giải quyết khẩn cấp.
thumb|Sự gia tăng [[:en:Wealth inequality in the United States|chênh lệch giàu nghèo tại Hoa Kỳ giai đoạn 1989-2013.]] Dân số nằm trong mức cực nghèo khó đã tăng một phần ba từ năm 2000 đến 2009. Người dân thuộc diện này thường không được tiếp cận với giáo dục có chất lượng; tỷ lệ phạm tội cao hơn, tỷ lệ cao hơn về những tổn thương thể chất và tâm lý, thiếu tiếp cận tới tín dụng và tích luỹ của cải; chịu giá hàng hoá dịch vụ cao, và khó có cơ hội tiếp cận những cơ hội nghề nghiệp.
Đã có khoảng 643.000 vô gia cư tại Mỹ trong một đêm vào tháng 1 năm 2009. Gần hai phần ba sống trong những lều khẩn cấp hoặc nhà tạm và một phần ba còn lại sống trên đường phố, trong những căn nhà bỏ hoang, hoặc những nơi khắc nghiệt khác. Khoảng 1,56 triệu người, hoặc 0,5% dân số Mỹ, phải sử dụng lều khẩn cấp hoặc nhà tạm từ tháng 10 năm 2008 đến tháng 9 năm 2009. Khoảng 44% tổng số người vô gia cư có việc làm.
Hoa Kỳ có một trong những hệ thống lưới an sinh xã hội thấp nhất trong các quốc gia phát triển. Mức sống của người nghèo tại Mỹ nằm trong số cao nhất trển thế giới.
Hệ thống chăm sóc sức khoẻ
thumb|Sơ đồ biểu thị danh sách các nguồn Bảo hiểm y tế của Hoa Kỳ vào năm 2016. Theo ước tính của CBO thì [[Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức khỏe Hợp túi tiền (ACA / Obamacare) chịu trách nhiệm cho 23 triệu người được tiếp cận các nguồn bảo hiểm thông qua trao đổi và mở rộng chương trình :en:Medicaid.]] thumb|Biểu đồ buổi thị mối quan hệ giữa tuổi thọ trung bình và số tiền chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe tính trên bình quân đầu người của các nước OECD tính đến năm 2013. Hoa Kỳ là một nước ngoại lệ với mức chi tiêu cao nhưng tuổi thọ trung bình lại thấp hơn so với các nước trong khối. thumb|Biểu đồ thanh so sánh chi phí chăm sóc sức khỏe tính theo phần trăm GDP giữa các nước OECD thumb|Số người không có bảo hiểm tại Hoa Kỳ (tính theo đơn vị triệu người) và tỷ lệ (%) qua dữ liệu từ trước đây đến năm 2016 và hai dự báo của CBO (năm 2016 với chính sách của Obama và 2018 với chính sách của Trump) đến năm 2026. Hai nguyên nhân chính khiến nhiều người dân không được tiếp cận các khoản bảo hiểm hơn dưới thời Tổng thống Trump là: 1) Loại bỏ các điều luật bắt buộc mọi cá nhân phải có bảo hiểm y tế; và 2) Ngừng biện pháp thanh toán chung để chia sẻ chi phí.
Có nhiều tổ chức khác nhau cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tại Mỹ. Hệ thống các cơ sở vật chất và trang thiết bị phần lớn được sở hữu và vận hành bởi khu vực kinh tế tư nhân. Bảo hiểm sức khoẻ cho người lao động thuộc khu vực công chủ yếu được cung cấp bởi chính phủ. Ước tính từ 60-65% chi tiêu chăm sóc sức khoẻ đến từ các chương trình như Medicare, Medicaid, Tricare, chương trình bảo hiểm sức khoẻ cho trẻ em, và cơ quan chăm sóc sức khoẻ cho cựu binh (Veterans Health Administration). Hầu hết dân số độ tuổi dưới 65 được mua bảo hiểm bởi người thân hoặc công ty nơi người thân của họ làm việc, một vài người tự mua bảo hiểm, và số còn lại không được bảo hiểm. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2010, đạo luật PPACA (Patient Protection and Affordable Care Act) hay "ObamaCare" được thông qua, tác động đáng kể tới các chương trình bảo hiểm sức khoẻ. Trong số 17 quốc gia có thu nhập cao được nghiên cứu bởi Viện sức khoẻ quốc gia năm 2013, Hoa Kỳ xếp hạng nhóm đầu về tỷ lệ béo phì, mức độ thường xuyên trong sử dụng ô tô và gặp tai nạn, tội phạm giết người, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, các bệnh về tim và phổi, bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục, mang thai tuổi vị thành niên, tử vong hoặc bị thuương do sử dụng chất có cồn và ma tuý tổng hợp, và tỷ lệ người bị tàn phế. Cùng với đó, thói quen sống và các nhân tố xã hội đã đặt Hoa Kỳ ở vị trí cuối về tuổi thọ người dân. Tính trung bình, một nam giới Mỹ có tuổi thọ ít hơn 4 năm so với nam giới tại các quốc gia trong nhóm đứng đầu, mặc dù người Mỹ từ độ tuổi 75 trở lên sống lâu hơn so với những người dân cùng độ tuổi tại các quốc gia so sánh.
Một báo cáo toàn diện năm 2007 nghiên cứu bởi các bác sĩ Châu Âu đã chỉ ra rằng tỷ lệ sống sót của bệnh nhân bị ung thư 5 năm tại Mỹ là cao hơn đáng kể so với tại 21 quốc gia Châu Âu: 66,3% bệnh nhân nam tại Mỹ so với 47,3% tại Châu Âu, và tỷ lệ này tương ứng là 62,9% so với 52,8% của bệnh nhân nữ. Người Mỹ thực hiện khám kiểm tra phát hiện ung thư với tỷ lệ cao hơn đáng kể so với người dân ở các quốc gia phát triển khác, và việc sử dụng chụp MRI và CT cao nhất trong các quốc gia OECD. Người dân Mỹ được chẩn đoán hàm lượng chất béo cao (high cholesterol) hoặc huyết áp cao (hypertension) đến chữa trị tại các cơ sở y tế nhiều hơn so với bệnh nhân tương tự tại các quốc gia phát triển khác, và thường thành công hơn trong việc kiểm soát tình trạng bệnh. Bệnh nhân bị tiểu đường (Diabetics) thường được điều trị tốt hơn và có kết quả hơn tại Mỹ hơn là Canada, Anh hoặc Scotland.
Hoa Kỳ tuy chậm trễ về chương trình chăm sóc sức khoẻ nhưng lại là quốc gia dẫn đầu thế giới về những phát minh y học. Chỉ riêng nước Mỹ đã phát triển và đóng góp 9 trên 10 phát minh quan trọng nhất về y học kể từ năm 1975, trong khi Châu Âu và Thuỵ Sĩcùng nhau đóng góp 5 phát minh. Kể từ năm 1966, Người Mỹ nhận được nhiều giải Nobel về Y học (Nobel Prizes in Medicine) hơn phần còn lại của thế giới cộng lại. Từ năm 1989 đến 2002, tổng số tiền đầu tư cho các công ty công nghệ sinh học tại Mỹ đã tăng hơn 4 lần so với tại Châu Âu.
Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới (WHO), Hoa Kỳ là quốc gia có mức chi tiêu cho sức khoẻ trên thu nhập bình quân đầu người (7.146 đô la), và tính trên (15,2%), cao hơn bất kỳ một quốc gia nào khác năm 2008. Năm 2010, Cục dân số Mỹ thống kê có 49,9 triệu người hoặc 16,3% tổng dân số không có bảo hiểm sức khoẻ. Trong số đó, 18,3 triệu người có mức thu nhập hộ gia đình hàng năm từ 50.000 đô la trở lên, 9,5 triệu người có mức thu nhập từ 75.000 đô la trở lên, 16,2 triệu người có mức thu nhập ít hơn 25.000 đô la, 27,2 triệu người dưới 35 tuổi, và 9,7 triệu người không phải công dân Mỹ. Cục dân số cho rằng báo cáo này thậm chí chưa nêu hết tình trạng bao phủ của bảo hiểm sức khoẻ. Lấy ví dụ, một báo cáo kiểm soát chất lượng cho thấy 16,9% người dân tham gia chương trình bảo hiểm Medicaid sai quy định đang ở tình trạng không được bảo hiểm. Phân tích cũng chỉ ra hàng triệu người không được bảo hiểm đủ điều kiện tham gia các chương trình giống như Medicaid nhưng đã không đăng ký hoặc để cho hợp đồng hết hạn. Theo các Bác sĩ của Chương trình sức khoẻ quốc gia, việc thiếu bảo hiểm này đã dẫn đến gần 48.000 trường hợp tử vong không cần thiết hàng năm. Phương pháp suy luận trên đã bị John C. Goodman chỉ trích vì nó không tính tới nguyên nhân trực tiếp của tử vong hoặc theo dõi tình trạng bảo hiểm thay đổi theo thời gian, bao gồm cả thời điểm tử vong. Nghiên cứu năm 2009 bởi cựu cố vấn chính sách cho tổng thống Bill Clinton, Richard Kronick đã tìm ra không có sự tăng lên về tử vong liên quan đến việc không được bảo hiểm sau khi các nhân tố rủi ro nhất định được kiểm soát.
Chi phí cao cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ tại Hoa Kỳ có nhiều nguyên nhân khác nhau từ tiến bộ công nghệ, chi phí quản lý, giá thuốc, các nhà cung cấp tính phí cao hơn cho trang thiết bị, người dân Mỹ được nhận nhiều chăm sóc y tế hơn tại các quốc gia khác, mức lương cao của bác sĩ, chính sách kiểm soát của chính phủ, tác động của tố tụng, và hệ thống thanh toán của bên thứ ba giúp giảm chi phí điều trị. Mức giá thấp cho dược phẩm, thiết bị y tế, và chi trả cho bác sĩ đang nằm trong kế hoạch của chính phủ. Người Mỹ có xu hướng nhận được nhiều chăm sóc y tế hơn người dân tại các quốc gia khác, nên đây cũng là nhân tố là tăng chi phí. Tại Mỹ, một bệnh nhân trung bình được thực hiện phẫu thuật tim sau khi bị đau tim nhiều hơn tại quốc gia khác. Bảo hiểm Medicaid chi trả ít hơn Medicare cho nhiều đơn thuốc do thực tế là Medicaid được chiết khấu nhiều hơn theo luật, trong khi giá Medicare thoả thuận bởi các công ty bảo hiểm tư nhân và công ty dược. Kế hoạch của chính phủ thường chi trả ít hơn, dẫn đến những nhà cung cấp chăm sóc sức khoẻ đẩy chi phí sang các công ty bảo hiểm tư nhân thông qua mức giá cao hơn.
Các ngành kinh tế
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Wheat_harvest.jpg|nhỏ|Mùa gặt lúa mỳ ở [[:en:Idaho|Idaho]] Hoa Kỳ hiện là nhà sản xuất hàng hoá lớn thứ hai thế giới, với tổng sản lượng công nghiệp năm 2013 đạt 2,4 nghìn tỷ đô la. Sản lượng này lớn hơn Đức, Pháp, Ấn Độ và Brazil cộng lại. Những ngành công nghiệp chính bao gồm dầu mỏ, thép, ô tô, máy móc xây dựng, hàng không, máy nông nghiệp, viễn thông, hoá chất, điện tử, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, gỗ, và khai khoáng. Nền kinh tế Hoa Kỳ vẫn có ngành sản xuất công nghiệp lớn nhất thế giới tính theo mức giá năm 2005.
Hoa Kỳ hiện dẫn đầu thế giới về chế tạo máy bay, chiếm một phần lớn trong tổng sản lượng công nghiệp. Các công ty Mỹ như Boeing, Cessna, Lockheed Martin và General Dynamics sản xuất phần lớn trong tổng số máy bay dân dụng và quân sự tại các nhà máy đặt khắp đất nước.
Lĩnh vực sản xuất tại Mỹ đã trải qua giai đoạn cắt giảm nhân công lớn trong suốt những năm qua. Trong tháng 1 năm 2004, tổng số việc làm trong lĩnh vực này là 14,3 triệu, giảm 3 triệu hoặc 17,5% kể từ tháng 7 năm 2000 và giảm khoảng 5,2 triệu việc là so với thời kỳ đỉnh cao 1979. Tổng số việc làm trong ngành sản xuất ở mức thấp nhất kể từ tháng 7 năm 1950. Số lượng công nhân ngành thép giảm từ 500.000 người năm 1980 còn 224.000 người năm 2000.
Nước Mỹ sản xuất ra khoảng 18% tổng sản lượng công nghiệp của thế giới, phần suy giảm do các quốc gia khác đã phát triển những cơ sở sản xuất cạnh tranh. Số lượng việc làm bị cắt giảm trong suốt thời kỳ gia tăng sản lượng này là kết quả của một loạt nhân tố bao gồm tăng năng suất lao động, thương mại và xu thế thay đổi về kinh tế dài hạn. Thêm vào đó, tăng trưởng trong lĩnh vực viễn thông, dược phẩm, chế tạo máy bay, máy công nghiệp nặng và ngành công nghiệp khác cùng với việc giảm các ngành công nghiệp sử dụng lao động kỹ năng thấp như quần áo, đồ chơi và sản xuất giản đơn đã dẫn đến những nhu cầu về tay nghề cao và trả lương cao. Những tranh cãi vẫn tiếp tục về sự suy giảm việc làm ở lĩnh vực sản xuất có liên quan tới các công đoàn Mỹ, mức tiền công thấp hơn cho nhân công tại nước ngoài, hoặc cả hai. liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Survival_rate_of_US_start-ups,_1977%E2%80%932012.svg|nhỏ|Số liệu thống kê số lượng doanh nghiệp phá sản vượt qua số lượng doanh nghiệp thành lập mới năm 2008 Mặc dù nông nghiệp chỉ đóng góp 1% vào sản lượng kinh tế, Hoa Kỳ vẫn là nhà xuất khẩu ròng về lương thực. Với những vùng đất trồng trọt ôn đới rộng lớn, những tiến bộ về kỹ thuật canh tác nông nghiệp, và chính sách trợ giá nông nghiệp, Hoa Kỳ kiểm soát gần một nửa lượng xuất khẩu lúa gạo của thế giới. Các sản phẩm bao gồm lúa mì, ngô, các loại hạt khác, hoa quả, rau, bông, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, sản phẩm từ sữa, lâm sản và cá.
Năng lượng, vận tải và viễn thông
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Map_of_current_Interstates.svg|nhỏ|Hệ thống đường cao tốc liên bang trải dài . liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Houston_Ship_Channel_Barbours_Cut.jpg|nhỏ|Cảng Houston, một trong những cảng lớn nhất nước Mỹ. Nền kinh tế Hoa Kỳ phụ thuộc mạnh mẽ vào hệ thống đường sá để vận chuyển người và hàng hoá. Phương tiện vận tải cá nhân chiếm là ô tô, hoạt động trên một mạng lưới 6,4 triệu km đường công cộng, bao gồm một trong những hệ thống đường cao tốc dài nhất thế giới (91.700 km). Với thị trường ô tô lớn thứ hai trên thế giới, Hoa Kỳ có tỷ lệ người dân sở hữu ô tô lớn nhất thế giới, với 765 xe trên 1000 người dân. Khoảng 40% các loại xe là xe tải, SUVs hoặc xe tải hạng nhẹ.
Vận tải công cộng chiếm 9% tổng nhu cầu đi lại của người lao động Mỹ. Vận tải đường sắt được sử dụng rộng rãi, tuy nhiên chỉ chiếm một lượng tương đối nhỏ hàng khách (khoảng 31 triệu lượt một năm), sử dụng các tuyến đường sắt xuyên các thành phố, một phần vì mật độ dân số thấp phân bố khắp các vùng nội địa Mỹ. Tuy nhiên, hệ thống Amtrak (tàu điện và xe bus) đã phát triển với tốc độ 37% từ năm 2000 đến 2010. Cùng với đó, hệ thống tàu đường sắt hạng nhẹ (light rail development) cũng phát triển trong những năm gần đây. Bang California hiện đang xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc (high-speed rail system) đầu tiên của Mỹ.
Ngành công nghiệp hàng không dân dụng (civil airline industry) đều thuộc sở hữu tư nhân và đã được điều chỉnh quy định từ năm 1978, trong khi hầu hết các hãng hàng không lớn thuộc sở hữu đại chúng (publicly owned). Ba hãng hàng không lớn nhất thế giới theo lượt khách chuyên chở có trụ sở tại Mỹ; Hiện American Airlines là lớn nhất sau cuộc sáp nhập năm 2013 bởi US Airways. Trong 30 sân bay nhộn nhịp nhất thế giới, 12 sân bay của Hoa Kỳ, bao gồm sân bay đông đúc nhất Hartsfield–Jackson Atlanta International Airport.
thumb|[[Danh sách các quốc gia theo sản lượng khí đốt|Danh sách các quốc gia theo số lượng các mỏ dự trữ khí tự nhiên (2014). Hoa Kỳ xếp thứ 4 trong số các quốc gia có nhiều mỏ dự trữ khí thiên nhiên nhất.]] Hoa Kỳ là quốc gia sử dụng nhiều năng lượng lớn thứ hai thế giới. Hoa Kỳ đứng thứ 7 về năng lượng tiêu thụ bình quân đầu người sau Canada và một số quốc gia. Phần lớn năng lượng đến từ nhiên liệu hoá thạch (fossil fuels): trong năm 2005, ước tính 40% năng lượng toàn quốc đến từ dầu mỏ, 23% từ than đá, và 23% từ khí gas tự nhiên. Năng lượng nguyên tử cung ứng 8,4% và năng lượng tái tạo cung ứng 6,8%, chủ yếu là từ các nhà máy thủy điện và điện tái tạo khác.
Sự phụ thuộc của nền kinh tế Mỹ vào nhập khẩu dầu mỏ tăng từ 24% năm 1970 lên 65% năm 2005. Vận tải là ngành tiêu thụ cao nhất, chiếm xấp xỉ 69% lượng dầu sử dụng tại Mỹ năm 2006, và 55% lượng dầu sử dụng toàn cầu theo báo cáo của Hirsch.
Trong năm 2013, Hoa Kỳ đã nhập khẩu 2,8 tỷ thùng dầu thô, so với 3,3 tỷ thùng năm 2010. Trong khi Mỹ là quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất, tờ Wall Street báo cáo năm 2011 quốc gia này sẽ trở thành nhà xuất khẩu ròng về dầu mỏ đầu tiên trong 62 năm. Tờ báo cũng nêu lên kỳ vọng điều này vẫn tiếp tục đến năm 2020. Thực tế dầu mỏ đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chính của Hoa Kỳ trong năm 2011.
Internet đã rất phát triển tại Mỹ và đây là quốc gia đặt những trung tâm mạng lớn nhất thế giới.
Thương mại quốc tế
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Protectionist_measures_taken_2008%E2%80%932013_according_to_Global_Trade_Alert.png|nhỏ|Bảo hộ mậu dịch tại các quốc gia từ năm 2008.
Hoa Kỳ là quốc gia trao đổi thương mại lớn thứ 2 thê giới. Luôn có một lượng tiền USD khổng lồ lưu chuyển liên tục khắp hành tinh; khoảng 60% các quỹ dự trữ sử dụng trong thương mại quốc tế là đồng USD. Đồng đô la cũng được sử dụng là đơn vị tiền tệ tiêu chuẩn ở các thị trường hàng hoá quốc tế như vàng và dầu mỏ.
Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đã tạo ra một trong những khu khu vực trao đổi thương mại lớn nhất thế giới năm 1994.
Kể từ năm 1976, Hoa Kỳ duy trì thâm hụt cán cân thương mại, và từ 1982 là thâm hụt cán cân thanh toán với các quốc gia khác. Thặng dư về trao đổi dịch vụ đã được duy trì và đạt mức cao kỷ lục 231 tỷ đô la năm 2013. Trong những năm gần đây, vấn đề kinh tế lo ngại chủ yếu tập trung vào: mức nợ cao hộ gia đình (11 nghìn tỷ đô la, bao gồm 2,5 nghìn tỷ đo la nợ quay vòng), mức nợ ròng quốc gia cao (9 nghìn tỷ đô la), nợ doanh nghiệp cao (9 nghìn tỷ đô la), nợ vay thế chấp nhà đất cao (hown 15 nghìn tỷ đô la đến cuối năm 2005), nợ nước ngoài cao, thâm hụt thương mại cao, một sự sụt giảm nghiêm trọng trạng thái đầu tư ròng quốc tế (NIIP) của Hoa Kỳ (-24% GDP), và tỷ lệ thất nghiệp cao. Những vấn đề này đã dấy lên lo ngại trong những nhà kinh tế và chính trị gia.
Trong năm 2013, giá trị hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của Mỹ đạt 2,27 nghìn tỷ đô la và nhập khẩu đạt 2,74 nghìn tỷ đô la, thâm hụt thương mại là 450 tỷ đô la. mức cao kỷ lục và tăng từ mức 304 triệu đô la năm 1983.
Hoa Kỳ đã đạt 231 tỷ đô la thặng dư về trao đổi dịch vụ, và 703 tỷ đô la thâm hụt trao đổi hàng hoá năm 2013. Mười đối tác thương mại lớn nhất của Hoa Kỳ bao gồm Trung Quốc, Canada, Mexico, Nhật Bản, Đức, Nam Hàn, Anh Quốc, Pháp, Ấn Độ và Đài Loan.
Theo chỉ số toàn cầu hoá của KOF và của tạp chí A.T. Kearney, Hoa Kỳ đã đạt mức độ cao về toàn cầu hoá (globalization). Người Mỹ chiếm tới một phần ba tổng số các lệnh chuyển tiền trên toàn cầu.
Tình trạng tài chính
Nợ công của Hoa Kỳ là 909 tỷ đô la năm 1980, bằng 33% GDP, đến năm 1990 nợ công tăng lên hơn 3 lần là 3,3 nghìn tỷ đô la, bằng 56% GDP. Trong năm 2001, tổng nợ quốc gia là 5,7 nghìn tỷ đô la, tuy nhiên tỷ lệ nợ trên GDP giữ nguyên bằng mức năm 1990. Nợ quốc gia đã tăng lên nhanh chóng trong những thập niên gần đây, và vào 28 tháng 1 năm 2010, tổng nợ của Hoa Kỳ đã tăng lên 14,3 nghìn tỷ đô la. Theo ngân sách liên bang Hoa Kỳ năm 2010, tổng nợ quốc gia sẽ tăng lên bằng gần 100% GDP, so với mức xấp xỉ 80% năm 2009. Nhà Trắng ước tính hoá đơn của chính phủ trả cho các khoản nợ sẽ vượt 700 tỷ đô là một năm tro