✨Khoa bảng Việt Nam
thumb|Khoa bảng Nam Định, 1897 Khoa bảng Việt Nam là chế độ khoa cử thời quân chủ tại Việt Nam. Ở thời thượng cổ, sử nước Việt không chép rõ về cách tuyển lựa trí thức. Theo Đào Duy Anh, đến thời Bắc thuộc thì nước Việt mới bắt đầu có Hán học, viên Thái thú Sĩ Nhiếp đã dạy dân Việt thi thư. Đến thời nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, do nước mới dựng, các triều đại chưa có điều kiện để tổ chức nền giáo dục.
Cho đến triều nhà Lý, nhà Trần, 3 tôn giáo là Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đều được coi trọng. Triều đình nhà Lý đã mở các khoa thi Tam trường để lấy người bổ làm quan. Sang đời Hậu Lê, Nguyễn thì Nho học độc tôn. Triều nhà Lê mở khoa thi kinh điển dành riêng cho các nhà tu hành một cách hạn chế. Đến thời vua Minh Mạng, Nho học suy vi, đến khi Việt Nam tiếp xúc với Tây phương, tình trạng xã hội biến thiên nhanh chóng, Nho học nhường chỗ cho các học thuật mới. Việt Nam sau khi thành thuộc địa thì bỏ khoa cử mà theo Pháp học, riêng ở miền Bắc và miền Trung thì năm 1915 và năm 1918 kết thúc.
Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm đó, đã có nhiều loại khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những đặc điểm khác nhau, song trong các đời Lý, Trần, Hồ có một đặc điểm chung là các khoa thi đều do triều đình đứng ra tổ chức, chỉ đạo thi. Hệ thống thi cử tuyển người làm quan này gọi là khoa cử (chữ Nho: 科舉).
Khái quát
thumb|Một lớp học chữ Nho tư gia vào khoảng năm 1895 Khoa bảng (科榜) là cái bảng danh dự, liệt kê tên họ các thí sinh đỗ đạt học vị trong các kỳ thi cử này, phần lớn được tuyển chọn làm quan chức cho triều đại phong kiến Việt Nam. Khoa bảng là tĩnh từ để chỉ những người đỗ đạt này. Thí dụ: "Gia đình khoa bảng" là gia đình có học, có người trong họ đỗ đạt cao trong những kỳ thi cử do triều đình tổ chức và chấm khảo.
Các sách xưa dùng chữ Nho dạy Nho giáo cho thí sinh dự các kỳ thi Hương, thi Hội gồm có: Nhất thiên tự, Sử học vấn tân, Ấu học ngũ ngôn thi, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, Tam tự kinh và bộ sách giáo khoa là Tứ Thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học và Trung dung), Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu). Nhiều nho sĩ còn đọc thêm cả bách gia chư tử, các sách Phật giáo, Đạo giáo nữa. Khối lượng sách học thật là đồ sộ, lại phải học thuộc lòng và hiểu đúng nghĩa nên nho sinh mất rất nhiều công phu học và vất vả gian nan. Cực khổ nhất là phải chờ hai ba năm mới có kỳ thi. Khi đi thi thí sinh lại phải mang theo lều, chõng, thức ăn, lặn lội xa xôi lên kinh thành. Ngoài việc thông làu kinh sách và thể thức đi thi, sĩ tử còn phải thuộc những chữ kỵ húy. Ai viết lầm thì bị tội "phạm trường quy" và sẽ bị đánh hỏng. Tác giả Ngô Tất Tố có viết truyện Lều chõng để nói lên những oái ăm của các kỳ thi này.
:Ngày nay nghe đến hai từ "lều chõng", có lẽ nhiều người sẽ lấy làm lạ vì những từ ấy từ biệt chúng ta mà đi tới chỗ mất tích đã gần ba chục năm nay. Nhưng mà trước hơn hai chục năm đi ngược trở lên, cho đến hơn một nghìn năm, "lều", "chõng" đã làm chủ vận mệnh của giang sơn cũ kỹ mà người ta tán khoe là "bốn nghìn năm văn hiến". Những ông ngồi trong miếu đường làm rường cột cho nhà nước, những ông ở nơi tuyền thạch, làm khuôn mẫu cho đạo đức phong hóa, đều ở trong đám "lều chõng" mà ra. Lều chõng với nước Việt Nam chẳng khác một đôi tạo vật đã chế tạo đủ các hạng người hữu dụng hay vô dụng. Chính nó đã làm cho nước Việt Nam trở nên một nước có văn hóa. Rồi lại chúng nó đã đưa nước Việt Nam đến chỗ diệt vong. Với chúng, nước Việt Nam trong một thời kỳ rất dài kinh qua nhiều cảnh tượng kỳ quái, khiến cho người ta phải cười, phải khóc, phải rụng rời hồn vía. (Ngô Tất Tố, Thời vụ số 109 ra ngày 10-3-1939)
Thời Lý - Trần tổ chức thi Tam giáo để tuyển những người thông hiểu cả ba tôn giáo Nho, Phật và Lão. Khoa thi Tam giáo đầu tiên diễn ra năm 1195 đời Lý Cao Tông. Người đỗ Tam giáo gọi là Tam giáo xuất thân. Khoa thi Tam giáo cuối cùng tổ chức năm 1247 đời Trần Thái Tông. Hình thức này sau đó không áp dụng nữa.
Cuối thời nhà Trần, Hồ Quý Ly nắm quyền điều hành triều đình đã đặt ra lệ thi Hương đầu tiên ở các địa phương năm 1396 đời Trần Thuận Tông, lấy người đỗ được học vị cử nhân. Năm sau (1397) tổ chức thi Hội ở kinh đô. Đây là khoa thi Hội đầu tiên. Cách thức tổ chức sử sách không chép rõ; những người có tiếng về học vấn trong thời Bắc thuộc đều đã du học ở Trung Quốc như Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng. Đến triều Ngô và triều Đinh độc lập, trị nước không được lâu mà lại lo chỉnh đốn việc võ bị và chính trị, chưa có thì giờ mà tổ chức việc giáo dục. Cho nên việc học bấy giờ chỉ có ở trong các chùa chiền. Có thể nói rằng bây giờ Hán học nhờ Phật học mà truyền bá trong dân gian.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí: "Nước Việt từ thời nhà Đinh, nhà Lê khoa cử chưa tổ chức, triều đình dùng người đại để không câu nệ. Đến đời nhà Lý, văn hóa mở dần; năm Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tông (1072-1076) mở khoa Bác học, năm Thiệu Minh đời vua Lý Anh Tông (1138-1140) có phép thi Đình, quy chế dùng người, điều mục và đại cương gần như đầy đủ".
Theo sách Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính: "Nước ta từ thời Lý mới có khoa cử. Xét trong Sử ký; năm Thái Bình thứ tư đời vua Thánh Tôn (1075) nước ta mới bắt đầu mở khoa thi ba kỳ, kén lấy người minh kinh bác học. Sau lại mở ra khoa Văn học. Thời vua Lý Anh Tông mở khoa thi Thái học sinh, hỏi việc chính trị, ai đỗ thì dùng làm quan; vua Lý Nhân Tông mở khoa lại điển, thi hành luật thư toán, ai đỗ thì bổ làm ty thuộc".
Đến đời nhà Trần, mở rộng đường khoa cử, phép thi chia làm tam giáp, bao gồm nhất giáp, nhị giáp và tam giáp; Năm 1244 lại định lệ nhất giáp; chia làm ba bậc; bậc thứ nhất là Trạng nguyên, bậc thứ nhì là Bảng nhãn; bậc thứ 3 là Thám hoa. hay gọi là kỳ thi Tam Trường. Kỳ này chọn được 10 người. Thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Năm 1076, Năm 1086, thi những người có văn học trong nước bổ vào làm quan tại viện Hàn lâm, Mạc Hiển Tích đậu đầu, được bổ làm Hàn lâm học sĩ.
Theo lời bàn của Sử thần họ Ngô trong sách Lịch triều hiến chương loại chí: "Thi tam giáo là thi xét những người thông hiểu cả đạo Nho, đạo Lão, đạo Phật thì cho đỗ".
Nhà Trần
Sang triều Trần, ngay đời vua Trần Thái Tông, việc giáo dục và khoa cử đã tổ chức chu đáo hơn triều Lý. Năm 1232, ngoài phép thi Tam trường như đời trước lại mở thêm khoa thi Thái học sinh, chia làm tam giáp để phân biệt cao thấp.
Thi Thái học sinh: là khoa thi cho Thái học sinh, tức là các học sinh ở nhà Thái học, cũng gọi là nhà Quốc học, nói cách khác là sinh viên ở trường đại học quốc gia duy nhất của thời đó. Người thi đỗ các khoa thi này gọi là đỗ Thái học sinh.
Thi Đại tỷ: còn gọi là Đại tỷ thủ sĩ được tổ chức cho năm loại đối tượng:
Thuộc quan ở Tam quán (cho con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở ba "quán" (ngày nay là viện) như Sùng văn quán, Nho lâm quán, Tú lâm cục),
Thái học sinh,
Thị thần học sinh (con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở 6 cục Ngự tiền cận thị chi hậu, ở Trung thư giám),
Tướng phủ học sinh (con cái của các thân vương, thân công, hoàng tử, công chúa, các tướng công hầu bá thuộc họ hàng thân thích của nhà vua được nhà nước cử học quan đến dạy tại phủ đệ của mình),
Người làm quan có tước phẩm.
Năm 1236, triều đình chọn nho sinh thi đỗ vào hầu vua, sau định thành lệ. Năm 1239, thi Thái học sinh, chia thứ bậc Tam giáp. Năm 1247, định niên hạn thi đại tỷ để lấy học trò, cứ 7 năm một lần.
Khoa thi tháng 2, năm 1247, thi Đại tỷ, lại đặt ra tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa) ở trên Thái học sinh. Kỳ thi này lấy 48 người, xuất thân theo thứ bậc. Trước đây, hai khoa trước chỉ chia bậc Giáp, Ất, nay mới lấy Tam khôi.
Tháng 8 năm 1247, thi tam giáo bắt học sinh phải thi cả ba môn Nho học, Phật học và Lão học. Lê Văn Hưu người huyện Đông Sơn 18 tuổi, đỗ Thám hoa; đỗ Bảng nhãn là Đặng Ma La, 14 tuổi, người ở Mỹ Lương
Năm Nguyên Phong thứ 6 (1256) mở khoa thi lấy Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên, mỗi bên một người cho đỗ xuất thân. Trước kia do châu Hoan, Ái ở xa nhân tài không nhiều bằng ở các kinh trấn, cho nên mỗi khoa thi lấy người giỏi nhất về bên trại gọi là Trại trạng nguyên, ngang hàng với Kinh trạng nguyên để tỏ ý khuyến khích. Kỳ này lấy 43 người đỗ Thái học sinh
Năm 1266 đời vua Trần Thánh Tông, mở khoa thi lấy Kinh trạng nguyên, Trại trạng nguyên, Thái học sinh 47 người, xuất thân theo thứ bậc.; rồi đến thi kinh nghi (hỏi những điều ngờ trong các kinh), kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thì ngũ ngôn trường thiên, lấy 4 chữ tài, nan, xạ, trĩ làm vẫn, phú dùng thể 8 vần. Trường thứ 3 thi chiếu, chế, biểu. Trường thứ tư thi văn sách.
Kỳ thi năm 1305, ai đỗ Tam khôi sẽ được dẫn ra cửa Long Môn, Phượng Thành đi chơi phố 3 ngày. Trạng nguyên thì bổ Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung chức nội thư gia; Bảng nhãn thì bổ chi hậu bạ thư; có mạo sam. sung chức nội lệnh thư gia; Thám hoa thì bổ hiệu thư, có quyền miện và được 2 tư; còn 330 người được lưu học. Cùng năm có chiếu dùng bảy khoa để thi học trò trong nước.
Đời vua Trần Duệ Tông, năm 1374, Lê Quý Ly cải cách phép thi đổi Thái học sinh làm Tiến sĩ cho Tam khôi và Hoàng giáp là cập đệ xuất thân; cho Tiến sĩ là đồng cập đệ xuất thân. Năm 1397, Lê Quý Ly định lại bốn trường và bỏ môn ám tả; nhất trường thi kinh nghĩa; nhị trường thi thơ phú; tam trường thi chiếu, chế biểu; tứ trường thi văn sách. Lê Quý Ly lại bắt đầu định phép thi Hương; có trúng tuyển cử nhân mới được dự thi Hội năm sau, ai trúng thi Hội thì thi một bài văn sách nữa để định cao thấp; gọi là thi Đình.
Trước kia nhà quốc học chỉ đặt ở Kinh đô; còn trong dân gian thì việc học hành do tự ý nhân dân tổ chức. Năm 1398, Hồ Quý Ly đặt quan Giáo thụ tại các châu, các phủ những lộ Sơn Nam (nay là Nam Định); Ninh bắc (nay là Bắc Ninh) và Hải đông (nay là Hải dương); tùy theo châu phủ lớn nhỏ mà cấp học điền là 15, 12 hay 10 mẫu. Ở mỗi lộ có quan Đốc học dạy sinh đồ, cứ mỗi năm thì chọn những kẻ tuấn tú cống về triều để thi hạch.
Nhà Hồ
Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần năm 1400, tháng 8 năm đó thi Thái học sinh. Kỳ thi này lấy đỗ 20 người, Lưu Thúc Kiệm; Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành đều đỗ kỳ này.
Năm 1404, Hồ Hán Thương định cách thức thi cử nhân: Tháng 8 năm nay thi Hương, ai đỗ thì được miễn lao dịch; tháng 8 năm sau thi ở Lễ bộ, ai đỗ thì bổ dùng; lại đến tháng 8 sang năm nữa thi Hội, ai đỗ thì sung Thái học sinh, đều cứ ba năm một khoa. Phép thi theo nhà Nguyên, thi ba trường, lại có một kì văn sách là trường tư, một kỳ thi viết và tính là trường năm.
Nhà Hậu Lê
Đời vua Lê Thái Tổ
Theo Đào Duy Anh, nửa sau triều Trần từ đời nhà Nho Chu Văn An, Nho học đã bắt đầu thắng Phật học. Sang đời Lê, Nguyễn, Nho học mới chiếm địa vị độc tôn. Hai triều ấy đều có phép luật nghiêm khắc đối với các nhà tu hành Phật giáo và Đạo giáo. Nước Việt trải qua cuộc nhà Minh chinh phục thì rất nhiều sách vở về Nho học, Phật học của nước Việt bị người Minh thu mất, rồi người Minh phát lại những sách Ngũ kinh, Tứ thư thể chú để dùng ở các trường công. Đến khi nhà Lê phục quốc, những chế độ và thư tịch ở đời Lý, Trần đã mất tích nên đành bắt chước chế độ của Minh triều, lấy khoa cử làm con đường dụng thân duy nhất, dùng văn chương bác cổ để làm thước đo nhân tài, lấy sách Tống nho làm chính thư.
Nhà Minh hoàn thành việc xâm lược Đại Ngu bằng việc đánh bại nhà Hậu Trần năm 1399; nhà Minh có mở khoa thi nhưng kẻ sĩ đều trốn tránh không chịu ra thi. Phép thi cử bỏ mặc cho đến khi vua Lê Thái Tổ đánh thắng quân Minh, khôi phục giang sơn với quốc hiệu Đại Việt., liền hạ lệnh thi học trò văn học, đầu đề bài thi: Bảng văn dụ thành Đông Quan, lấy đỗ 50 người, sung bổ chức An phủ các lộ bên ngoài và chức viên ngoại lang ở 6 bộ trong Kinh. Khoa này Đào Công Soạn, người Tiên Lữ, Hưng Yên đỗ đầu.
Sau khi Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh, khôi phục độc lập (1428), nhà vua lưu tâm sắp đặt việc học ngay. Nhà vua cho mở lại trường Quốc tử giám để cho con cháu các quan và người thường dân tuấn tú vào học và đặt các nhà học ở các phủ và các lộ.
Năm 1431, thi Hoành từ. Năm 1433, vua lại thân thi văn sách.
Đời vua Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông
Đời vua Lê Thái Tông, năm Thiệu Bình thứ 1 (1434), định phép thi chọn kẻ sĩ. Nhà vua ra chiếu rằng:Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học thì thi cử là đầu. Nước ta từ khi trải qua binh lửa, anh tài ít như lá mùa thu, tuấn sĩ thưa như sao buổi sớm. Thái Tổ ta mới dựng nước, đã lập ngay trường học, nhưng lúc mới mở mang, chưa đặt khoa thi. Ta noi theo chí tiên đế, muốn cầu được người hiền tài để thỏa lòng mong đợi. Nay định điều lệ khoa thi, hẹn tới năm Thiệu Bình thứ 5 (1438) thì thi Hương ở các đạo, đến năm thứ 6 (1439) thì thi Hội ở đô sảnh đường.
Năm Đại Bảo thứ 3 (1442) thi Hội, thi Đình, lấy tam khôi cập đệ, lại sai soạn văn dụng bia đề tên các tiến sĩ. Bia tiến sĩ bắt đầu có từ đây. Sĩ tử ứng thí 450 người, lấy 33 người trúng tuyển, quan tháng sau vào thi Đình, nhà vua ngự điện đình ra sách vấn, sai quan đọc, tâu và xướng danh, lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và 7 tiến sĩ, 23 phụ bảng, ân ban ăn yến, mũ áo, cân đai và cho vinh quy về làng, việc thành lệ về sau
Đời vua Lê Nhân Tông, năm 1448, thi Hội, thi Đình vào tháng 8, nhà vua thân ra văn sách hỏi về lễ nhạc hành chính, chia những người đỗ ra làm chính bảng và phụ bảng theo bậc khác nhau. Sau kỳ thi Hương, lấy đỗ 760 người để thi Hội,; lấy 27 người trúng tuyển vào thi Đình.
Kỳ thi năm 1463, số sĩ tử dự thi Hội đến 1400 người, lấy đỗ 44 người, khoa này mới cho đỗ cập đệ xuất thân.
Lại định tư cách tiến sĩ như sau: Đệ nhất giáp đệ nhất danh, hàm chánh lục phẩm, 8 tư; Đệ nhị danh, hàm tòng lục phẩm, 7 tư; Đệ tam danh, hàm chánh thất phẩm, 6 tư; Đệ nhị giáo, hàm tòng thất phẩm, 5 tư; Đệ tam giáp, hàm chánh bát phẩm, 4 tư. Vào hàn lâm viện thì được hơn một cấp.
Trước tình hình đất nước rối ren ở những năm đầu, nhà Mạc chưa tổ chức các khoa thi.
Mãi đến năm năm 1532, Mạc Thái Tông mới mở khoa thi cử nhân, lấy đỗ Nguyễn Thiến và 26 người khác.
Năm 1535, nhà Mạc mở khoa thi cử nhân, lấy đỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tổng cộng 32 người trúng tuyển. Năm sau cho tu sửa lại trường Quốc tử giám.
Năm 1541, vua Mạc Hiến Tông mở khoa thi cử nhân, lấy đỗ Nguyễn Kỳ gồm 30 người trúng tuyển. Năm 1547, Mạc Phúc Nguyên mở khoa thi cử nhân, lấy Dương Phúc Tư cộng 30 người trúng tuyển. Năm 1550, mở khoa thi lấy Trần Văn Bảo cộng 25 người trúng tuyển.
Đời Lê Trung hưng và chúa Trịnh
Sau khi nhà Lê chính thức mất về tay Mạc Đăng Dung vào năm 1527, nhiều nơi khởi binh chống lại nhà Mạc. Một viên tướng triều đình tên là Nguyễn Kim khởi binh ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An, lập con vua Lê Chiêu Tông tên Duy Ninh làm vua Lê Trang Tông. Năm 1548, vua Trang Tông mất, con là Lê Trung Tông nối ngôi, mở mang cơ nghiệp.
Năm 1554, nhà Lê Trung Hưng đặt chế khoa thi thi sĩ tử tại Thanh Hóa, lấy 13 người đỗ xuất thân và đồng xuất thân. Năm 1565, mở khoa thi lấy đỗ 10 người. Năm 1577, lấy đỗ 5 người. Từ năm 1580 bắt đầu mở lại khoa thi Tiến sĩ, lấy 6 người đỗ xuất thân và đồng xuất thân; trong đó có Nguyễn Văn Giai và Phùng Khắc Khoan. a khoa 1583, 1577, 1592, đều thi ở Thanh Hóa.
.
Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn có chép:
Chúa Nguyễn
Năm 1558, Nguyễn Hoàng được sự cho phép của Trịnh Kiểm cùng gia thuộc vào trấn thủ Thuận Hóa. Từ đây Nguyễn Hoàng phát triển cơ đồ, giữ riêng một cõi phía Nam, lập ra nghiệp chúa, việc chính trị, thuế lệ, binh lính, việc gì cũng sắp xếp như một nước tự chủ.
Năm Đinh Hợi 1674, chúa Nguyễn ra hai loại khoa thi:
Nhà Tây Sơn
Thời vua Quang Trung thi cử thường phải bằng chữ Nôm, bãi bỏ dùng chữ Hán. Vì vậy nhiều giám khảo, thí sinh cho rằng triều đình khắc nghiệt.
Nhà Nguyễn
Đời vua Gia Long
Vua Gia Long Nguyễn Ánh nhờ võ công mới dụng nên cơ nghiệp, cho nên các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ. Nhưng Gia Long cho rằng, sự trị nước cần phải có văn, có võ, nên nhà vua lưu ý về việc học hành thi cử trong nước.
Nhà vua cho lập Văn Miếu ở các doanh, trấn, thờ Khổng Tử để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc tử giám ở kinh đô để dạy con các quan và sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học ra làm quan. Đặt thêm chức đốc học ở các trấn và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ.
Trước đây cứ 6 năm một khoa thi, nay đổi lại làm 3 năm một khoa, cứ năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu thì thi Hương; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hội, thi Đình.
Kết thúc
Nền Nho học bỗng gặp tình thế phải tiếp xúc với văn minh phương Tây. Lúc này trạng thái chính trị và xã hội biến thiên nhanh chóng, Nho học không còn thích hợp nữa, phải nhường chỗ cho học thuật mới. Việt Nam từ khi thành thuộc địa thì bỏ khoa cử theo nền giáo dục của người Pháp. Riêng ở miền Bắc, việc thi cử theo Nho học kết thúc năm 1915; và ở miền Trung kết thúc vào năm 1918.
Nho học bị bãi bỏ được cho là lý do khiến đạo đức xã hội xuống cấp, người Việt bị tách rời khỏi di sản học thuật của nước nhà tích lũy được trong mười thế kỷ, toàn xã hội mất phương hướng, mê loạn về giá trị. Học giả Trần Trọng Kim nhận định "Xét ra cho kỹ, sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì người mình nông nổi, không suy nghĩ cho chín, chưa gì đã đem phá hoại cả đi, thành thử cái xấu, cái dở của mình thì vị tất đã bỏ đi được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội của ta được vững bền hàng mấy nghìn năm nay. Phàm người ta muốn bỏ cái cũ đã hẩm nát, tất là phải có cái mới tốt hơn, đẹp hơn để thay vào. Nay ta chưa có cái mới mà đã vội vàng bỏ cái cũ đi, thành ra đổ nát cả, mà không có cái gì thay vào được. Ấy là cái tình trạng nước ta ngày nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra giữa biển, đánh mất địa bàn chỉ nam, không biết phương hướng nào mà đi cho phải đường, cứ lênh đênh mãi, không khéo lại bị sóng gió va vào đá vỡ tan mất cả".
Thi Hương
Dân chúng xem bảng yết danh những người thi đỗ kỳ thi Hương năm 1897
Đại cương
Theo Đào Duy Anh, năm 1397, triều nhà Trần, Hồ Quý Ly lại bắt đầu định phép thi Hương; có trúng tuyển cử nhân mới được dự thi Hội năm sau, ai trúng thi Hội thì thi một bài văn sách nữa để định cao thấp; gọi là thi Đình. mới hạ chiếu thi khảo trong nước. Kỳ thi này lấy hơn ngàn người trúng tuyển, chia làm ba hạng; hạng nhất, nhì bổ vào Quốc tử giám; hạng ba vào trường ở các đạo để học tập, cho miễn lao dịch.
Đời vua Lê Nhân Tông, hạ lệnh cho nhân dân biết chữ đến thi khảo ở bản đạo, người nào trúng tuyển sẽ đưa đến thi Hội ở bộ Lễ, cho miễn việc tuyển bổ quân ngũ lần này.
Thể lệ thi Hương vào đời vua Lê Thái Tông (1434-1439), Lê Nhân Tông (1443-1453), người nào do sinh đồ mà đỗ Hương cống thì được sung vào Giám sinh, người nào đang là quân nhân mà đỗ Hương cống thì không được sung vào Giám sinh mà vẫn là Hương cống. Năm 1462, định thể lệ thi Hương, sĩ tử là sinh đồ hay quân nhân đều được dự vào thi Hương. Người nào trúng được 3 kỳ gọi là Sinh đồ; đến khoa sau lại vào thi, người nào trúng được 4 kỳ thi Hương gọi là Hương cống, mới được dự thi Hội. Về phần quan viên, chưa đỗ Hương cống cũng được phép dự thi Hội.
Năm 1486, theo lời tâu của Lương Thế Vinh, hạ lệnh cho quan viên có học tập cử nghiệp, nếu làm qua ở Kinh, thì đến thi ở ti Thừa chính, trước hết phải qua kỳ sát hạch ở phủ huyện, theo như lệ của bách tính, rồi vào được vào thi Hội.
Khoa Nhâm Tý 1912 thì lại đổi nữa, bỏ phân thi phú. Nội dung là:
Trường nhất: năm đạo văn sách
Trường nhì: hai bài luận chữ Hán
Trường ba: hai bài luận chữ Quốc ngữ
Trường tư (phúc hạch): một bài văn sách, một bài luận Hán văn, và một bài luận Quốc ngữ..
Thể lệ
Kỳ thi Hội vào năm Quang Thuận- đời vua Lê Thánh Tông, người nào trúng được 4 kỳ gọi là Tiến sĩ, người không trúng bổ vào tăng quảng sinh ở Quốc tử giám, người nào trúng 3 kỳ bổ làm thuộc lại, tá nhị hoặc giáo chức ở nha môn, còn viên quan chính thứ ở các huyện sẽ bổ người thi đậu Tiến sĩ.
Thể lệ thi hội thời nhà Nguyễn
Năm Minh Mệnh thứ 6, định lệ cứ năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mở khoa thi hội và thi vào tháng ba âm lịch. Giám khảo có một chánh chủ khảo, một phó chủ khảo, hai tri cống cử, hai đề điệu, sáu đồng khảo để coi việc ra đầu bài, chấm quyển, vài bốn tuần sát để coi việc giữ gian và bốn mươi thơ lại để coi việc sổ sách, viết quyển, viết bảng,...
Thi Hội chia làm 4 kỳ: kỳ đệ nhất ít nhất phải làm một bài kinh nghĩa, kỳ thứ hai thi chiếu, biểu; kỳ thứ ba thi một bài ngũ ngôn mười sáu câu, một bài phú độ tám vần; kỳ thứ tư thi văn sách. Trong hai kỳ, phải một kỳ bất cập phân thì hỏng, trong bốn kỳ được tám phân trở lên mới trúng cách. Hội thi trúng cách rồi mới thi Đình.
Thi Đình
Kỳ thi cao nhất là thi Đình tổ chức tại sân đình nhà vua. Nơi thi là một cái nghè lớn, nên sau này người ta thường gọi các vị vào thi là các ông nghè. Nhà vua trực tiếp ra đầu đề, và sau khi hội đồng giám khảo hoàn thành việc chấm bài, cân nhắc điểm sổ, chính nhà vua tự tay phê lấy đỗ. Người đỗ đầu gọi là Đình Nguyên.
Theo số điểm, người đỗ được xếp vào 3 hạng gọi là Tam Giáp:
- Bậc 3: Đỗ Tiến sĩ Đệ Tam Giáp (Đồng tiến sĩ xuất thân - tên dân gian là ông Tiến sĩ)
- Bậc 2: Đỗ Tiến sĩ Đệ Nhị Giáp (Tiến sĩ xuất thân, Hoàng Giáp - ông Hoàng)
- Bậc 1: Đỗ Tiến sĩ Đệ Nhất Giáp (Tiến sĩ cập đệ - gồm 3 thí sinh đỗ cao nhất gọi là Tam khôi: Đỗ hạng ba là Thám Hoa (ông Thám), hạng nhì là Bảng Nhãn (ông Bảng), đỗ đầu là Trạng nguyên (ông Trạng) Đôi khi lúc chấm bài, chủ khảo (trong đó có cả vua) thấy người thủ khoa không đạt được điểm số tối thiểu để gọi là Trạng. Những khoa này sẽ không có trạng nguyên - thủ khoa giữ cấp Đình nguyên (thí dụ: Lê Quý Đôn đỗ cao nhất nhưng chỉ được cấp vị Đình nguyên Bảng nhãn).
Theo lệ cũ, người nào đã thi Hội đỗ vào thi Đình đều không đánh hỏng người nào; chỉ có khoa thi năm 1496, vua Lê Thánh Tông thân hành xem xét phân biệt, đánh hỏng 11 người.
Thời nhà Nguyễn, thi Đình chỉ đối sách một bài rất dài. Quan trường hội đồng xét văn rồi đứng lên Ngự lãm, điểm cao lấy vào hạng Tiến sĩ, điểm thấp thì vào hạng Phó bảng. Vào năm 1828 vua Minh Mạng chỉnh đốn lại khoa cử và bỏ Đệ nhất giáp. Học vị trạng nguyên, bảng nhãn không còn trên khoa bảng từ đó.
Thống kê và các kỷ lục
Trong các khoa thi suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, có những dấu mốc và kỷ lục đáng lưu ý:
- Vị khai khoa đầu tiên là Lê Văn Thịnh, đỗ năm 1075 đời Lý Nhân Tông, sau làm tới Thị lang Bộ Binh rồi Thái sư.
- Danh vị Tam khôi đầu tiên được ghi nhận trong chính sử là Trạng nguyên Nguyễn Hiền, Bảng nhãn Lê Văn Hưu, Thám hoa Đặng Ma La, đỗ khoa 1247 đời Trần Thái Tông. Cả ba ông cũng đồng thời giữ danh vị Tam khôi trẻ nhất lịch sử với Nguyễn Hiền 13 tuổi, Lê Văn Hưu 17 tuổi và Đặng Ma La 14 tuổi.
- Danh vị Tam khôi cuối cùng được ghi nhận là Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, Bảng nhãn Phạm Quang Trạch, Thám hoa Quách Giai, đỗ năm 1683 đời Lê Hy Tông.
- Khoa thi có Tam khôi già nhất là khoa 1637 đời Lê Thần Tông: Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính 50 tuổi, Bảng nhãn Nguyễn Nghi 61 tuổi, Thám hoa Nguyễn Thế Khanh 37 tuổi.
- Trạng nguyên già nhất là Nguyễn Nghiêu Tư, đỗ lúc 65 tuổi năm 1448 đời Lê Nhân Tông.
- Bảng nhãn già nhất là Nguyễn Nghi, đỗ khoa 1637 đời Lê Thần Tông khi 61 tuổi.
- Thám hoa già nhất là Giang Văn Minh đỗ khoa 1628 đời Lê Thần Tông khi 56 tuổi.
- Trạng nguyên cuối cùng là Trịnh Tuệ (hay Trịnh Huệ) đỗ năm 1736 đời Lê Ý Tông tại khoa thi Đình tổ chức ở phủ chúa Trịnh.
- Bảng nhãn cuối cùng là Vũ Duy Thanh đỗ khoa 1851 đời Tự Đức.
- Thám hoa cuối cùng là Vũ Phạm Hàm, đỗ khoa năm 1892 đời vua Thành Thái. Khoa này không lấy ai đỗ Trạng nguyên cũng như Bảng nhãn.
- Khoa thi Mậu Tuất 1478 đời Lê Thánh Tông lấy đỗ hai bảng nhãn là Lê Quảng Chí và Trần Bích Hoành.
- Khoa thi Quý Sửu 1853 đời Tự Đức lấy đỗ 2 thám hoa là Nguyễn Đức Đạt và Nguyễn Văn Giao.
- Tiến sĩ trẻ nhất là Nguyễn Trung Ngạn, đỗ năm 1304 đời Trần Anh Tông khi mới 16 tuổi. Tiến sĩ già nhất là Nguyễn Bình, đỗ năm 1628 đời Lê Thần Tông khi 87 tuổi.
- Nữ tiến sĩ duy nhất là Nguyễn Thị Duệ đỗ năm 1616 đời Mạc Kính Cung (thời nhà Mạc rút lên Cao Bằng) khi ngoài 20 tuổi.
- Sĩ tử cao tuổi nhất là Vũ Đình Thự dự khoa Canh Tý, Thành Thái thứ 12 (năm 1900) khi đã 84 tuổi. Cụ đỗ Cử nhân, đứng thứ 62 trong số 90 Cử nhân của trường Hà Nội - Nam Định (năm đó 2 trường Hà Nội và Nam Định thi chung, trường Hà Nội lấy đỗ 43 người, Nam Định 47 người). Cụ Đoàn Tử Quang cũng đỗ năm đó, đứng thứ 29 trong số 30 Cử nhân trường Nghệ An, khi 82 tuổi, vẫn còn kém cụ Vũ Đình Thự 2 tuổi. Sau này ông mất năm 1928, thọ 110 tuổi.
- Nhà Hồ là triều đại quy định thi cử qua nhiều vòng nhất: người đỗ kỳ thi Hương năm sau phải vào Bộ Lễ thi lại, có đỗ mới được tuyển; năm sau nữa mới được thi Hội, qua được kỳ này mới được gọi là Thái học sinh (tiến sĩ). Kỳ thi thứ 5 là thi viết và toán.
- Khoảng thời gian dài nhất không lấy được người đỗ Trạng nguyên là từ năm 1743 đến 1785 thời Lê Hiển Tông. Trong 42 năm có 16 khoa thi nhưng không có trạng nguyên vì triều đình cho rằng không có người xứng tầm với học vị đó.
- Bia Tiến sĩ được dựng lần đầu năm 1484 đời Lê Thánh Tông tại sân Quốc tử giám.
- Lệ xướng danh người đỗ để biểu dương người học giỏi thực hiện lần đầu năm 1466 đời Lê Thánh Tông.
Nhận định
Theo Lê Quý Đôn, khi bình về việc thi cử đời nhà Hậu Lê:Quốc giao khôi phục sau khi nhiễu nhương thì nhà Nho vắng vẻ, đến đời Hồng Đức mở rộng khoa mục thì kẻ sĩ xô về hư văn, đời Đoan Khánh trở đi thì sĩ tập suy bại quá lắm.
Theo vua Minh Mệnh:Lâu nay khoa cử làm cho người ta sai lầm. Văn chương vốn không có qui củ nhất định, mà nay những người làm văn cử nghiệp thì câu nệ hủ sáo, khoe khoang lẫn nhau, biệt mối nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Học như thế thì trách nào nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi.
Theo Pham Kế Bính:Xưa nay lối khoa cử của ta là một con đường rộng rãi phẳng phiu cho bọn sĩ phu. Sĩ phu có do con đường ấy xuất thân mới là chinh đồ, mà sự vinh hạnh về sau cũng bởi đó mà ra cả. Bởi vậy nhân tâm nước mình say mê bia đá bảng vàng, cố sức dùi mài truyện hiền, kinh thánh, có người đầu bạc mà vẫn chịu khó đeo bộ lều chiếu để đua ganh với bọn thiếu niên. Mà rút lại thì có gì đâu, học cũng chẳng qua là học văn chương, thi cũng chẳng qua là thi văn chương...
Sách tham khảo
Đại Việt sử ký toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên,...Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, 1993. Lịch triều hiến chương loại chí; tập 2; soạn giả Phan Huy Chú; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản Giáo dục; 2006 Việt Nam phong tục; soạn giả Phan Kế Bính; Nhà xuất bản giáo dục; 2005. Việt Nam văn hóa sử cương; soạn giả Đào Duy Anh, 1938; in tại Quan Hải tùng thư, bản điện tử. Kiến văn tiểu lục, soạn giả Lê Quý Đôn, phiên dịch và chú thích Phạm Trọng Điềm; Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007. Đại Việt thông sử, soạn giả Lê Quý Đôn, Dịch giả Ngô Thế Long, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2007. *Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim, Nhà xuất bản; Tân Bắc Trung Văn; 1920; bản điện tử.