✨Trung Quốc bản thổ

Trung Quốc bản thổ

Quan điểm 1: Phạm vi tương đối của Trung Quốc bản thổ vào cuối thời [[nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Theo quan điểm hiện nay; đây là lãnh thổ Trung Quốc bản thổ rộng nhất, ổn định nhất và phổ biến nhất.]] Quan điểm 2: Lãnh thổ Trung Quốc bản thổ hẹp nhất, tức là vùng Trung Nguyên (Màu hồng, ở tại tâm giữa). Trung Quốc bản thổ () hay Mười tám tỉnh () từng là một thuật ngữ được các tác giả phương Tây sử dụng thời nhà Thanh để thể hiện một sự phân biệt giữa phần lõi và các vùng biên thùy Trung Quốc ổn định từ thời nhà Tần đến nhà Minh. Trung Quốc bản thổ không có phạm vi cố định do có nhiều thay đổi hành chính, văn hóa và ngôn ngữ trong lịch sử Trung Quốc. Có định nghĩa coi Trung Quốc bản thổ là khu vực ban đầu của nền văn minh Trung Hoa ngày nay, tức Trung Nguyên; trong khi lại có định nghĩa là gồm phạm vi "Mười tám tỉnh" (lãnh thổ nhà Minh ổn định, trước 1644) nhà Thanh. Dù Trung Nguyên hay Minh thì cũng chưa gồm Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông, Mãn Châu, Thanh Hải, đảo Đài Loan.

Nguồn gốc của khái niệm

Không rõ thời điểm khái niệm "Trung Quốc bản thổ" đã xuất hiện trong thế giới phương Tây là khi nào. Theo Harry Harding, khái niệm này có thể được đề cập đến từ năm 1827. Song từ năm 1795, William Winterbotham đã đưa khái niệm này vào sách của ông. Khi miêu tả đế quốc Trung Hoa dưới thời nhà Thanh, Winterbotham đã phân chia cương vực đế quốc này thành ba phần: Trung Quốc bản thổ, Tartary Trung Hoa, và các nước triều cống cho Trung Quốc. Ông đã chấp thuận các ý kiến của Du Halde và Grosier và nghi ngờ rằng tên gọi "China" xuất phát từ thời nhà Tần (và đây cũng là triều đại đã ấn định biên giới phía Bắc và mở rộng xuống phía Nam cho Trung Quốc bản thổ).

Tuy nhiên, khi đưa vào thuật ngữ Trung Quốc bản thổ, Winterbotham vẫn sử dụng hệ thống 15 tỉnh đã lỗi thời của nhà Minh, tức hệ thống mà nhà Thanh vẫn sử dụng cho đến năm 1662. Mặc dù nhà Minh cũng đã có 15 đơn vị hành chính địa phương căn bản, Winterbotham đã sử dụng các tên gọi tỉnh Giang Nam (江南), tỉnh này được gọi là Nam Trực Lệ (南直隶) vào thời nhà Minh và được đổi tên thành Giang Nam vào năm 1645, năm thứ hai sau khi nhà Thanh thay thế nhà Minh. Hệ thống 15 tỉnh đã dần được thay thế bằng hệ thống 18 tỉnh từ năm 1662 đến 1667. Việc sử dụng hệ thống 15 tỉnh và tên gọi Giang Nam đã thể hiện rằng Trung Quốc bản thổ có thể đã xuất hiện từ năm 1645 đến 1662 và khái niệm này có thể là được dùng để xác định lãnh thổ Trung Quốc của nhà Minh trước đây sau khi bị người Mãn chinh phục.

Vào thế kỷ 19, thuật ngữ "Trung Quốc bản thổ" thỉnh thoảng cũng được các quan lại Trung Hoa sử dụng khi họ giao thiệp bằng tiếng ngoại. Ví dụ, đại sứ nhà Thanh tại nước Anh Tăng Kỉ Trạch (曾紀澤) đã sử dụng nó trong một bài viết tiếng Anh mà ông xuất bản vào năm 1887.

Phạm vi

Không có phạm vi cố định cho Trung Quốc bản thổ, vì nó được sử dụng để thể hiện sự tương phản giữa vùng lõi và vùng ngoại biên của Trung Quốc trên các mặt về lịch sử, hành chính, văn hóa và ngôn ngữ.

Quan điểm lịch sử

Mười tám tỉnh của Trung Quốc bản thổ(Tương đương với lãnh thổ cuối thời Minh) vào năm 1866, trước khi Đài Loan tách khỏi Phúc Kiến vào năm 1885 và bị sáp nhập vào Nhật Bản năm 1895. Một cách để suy nghĩa về Trung Quốc bản thổ là tham khảo về các triều đại xưa của người Hán. Nền văn minh Trung Hoa phát triển từ một vùng gốc tại Trung Nguyên, và mở rộng ra trong vài ngàn năm, chinh phục và đồng hóa những dân tộc xung quanh, hoặc lại trở thành đối tượng bị chinh phục và bị ảnh hưởng. Một số triều đại như nhà Hán và nhà Đường thậm chí đã mở rộng lãnh thổ đến tận vùng Trung Á, trong khi các triều đại còn lại như nhà Tấn và nhà Tống thì lại bị buộc phải từ bỏ Trung Nguyên trước các đối thủ đến từ vùng Đông Bắc và Trung Á.

Nhà Minh là triều đại cuối cùng của người Hán. Triều đại này quản lý 15 đơn vị hành chính, trong đó có 13 tỉnh (布政使司, bố chính sứ ti) và hai khu vực "trực lệ". Sau khi nhà Thanh của người Mãn chinh phục Trung Hoa, triều đình nhà Thanh đã quyết định tiếp tục sử dụng hệ thống hành chính của nhà Minh để quản lý vùng đất cũ của Minh, song không áp dụng tại các lãnh địa khác của nhà Thanh là Mãn Châu, Mông Cổ, Tân Cương và Tây Tạng. 15 đơn vị hành chính từ thời Minh đã trải qua nhiều cải cách nhỏ và cuối cùng trở thành Mười tám tỉnh (一十八行省, Mười tám hành tỉnh hay 十八省 Mười tám tỉnh). Mười tám tỉnh này được các nguồn phương Tây ban đầu gọi là Trung Quốc bản thổ.

Có một số khác biệt nhỏ giữa phạm vi của Trung Quốc thời nhà Minh và phạm vi của Mưới tám tỉnh thời nhà Thanh: ví dụ, một số bộ phận của Mãn Châu trước đây đã thuộc sở hữu của tỉnh Liêu Đông nhà Minh nhưng quân Thanh đã chinh phục chúng trước phần còn lại của Trung Hoa và không đưa khu vực này vào một tỉnh nào của Trung Quốc bản thổ, tuy nhiên nó được tách ra vào năm 1885. Khác còn là Đài Loan là vùng đất mới được nhà Thanh giành được, và hòn đảo được gộp vào tỉnh Phúc Kiến, một tỉnh của Trung Quốc bản thổ. Phần phía đông của Kham thuộc Đại Tây Tạng được gộp vào Tứ Xuyên, còn nhiều nơi nay là phía bắc Myanmar được gộp vào Vân Nam.

Gần cuối thời nhà Thanh, có một nỗ lực để mở rộng hệ thống các tỉnh của Trung Quốc bản thổ ra các phần còn lại của đế quốc. Đài Loan trở thành một tỉnh riêng biệt vào năm 1885; song lại nhượng cho Nhật Bản vào năm 1895. Tân Cương được tái tổ chức thành một tỉnh vào năm 1884. Mãn Châu bị chia thành ba tỉnh Phụng Thiên, Cát Lâm và Hắc Long Giang vào năm 1907. Cũng có thảo luận về lập tỉnh tại Tây Tạng, Thanh Hải, Nội Mông và Ngoại Mông, song những đề xuất đó đã không được thực hiện, và các khu vực này nằm ngoài hệ thống tỉnh của Trung Quốc bản thổ khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912.

Các tỉnh thời nhà Thanh là:

Một số nhà cách mạng tìm cách lật đổ quyền cai trị của nhà Thanh với mong muốn thiết lập ra một nhà nước độc lập bên trong giới hạn của Mười tám tỉnh, được chứng tỏ bằng lá cờ 18 sao mà họ sử dụng. Còn những người khác thì ủng hộ việc thay thế toàn bộ triều Thanh bằng một nước cộng hòa mới, được chứng tỏ bằng lá cỡ ngũ sắc mà họ sử dụng. Một số nhà cách mạng, như Trâu Dung (鄒容), đã sử dụng thuật ngữ tương đương với Trung Quốc bản thổ là Trung Quốc bản bộ (中国本部), gần tương ứng với Mười tám tỉnh. Khi nhà Thanh sụp đổ, chiếu thoái vị của hoàng đế nhà Thanh chính thức truyền lại toàn bộ đế quốc cho Trung Hoa Dân Quốc, và chính sách chính yếu của nước cộng hòa là Ngũ tộc cộng hòa, Ngũ tộc đề cập đến người Hán, Mãn, Mông Cổ, Hồi (các dân tộc theo Hồi giáo nói chung) và người Tạng. Cờ năm sọc trở thành quốc kỳ, và Trung Hoa Dân Quốc tự nhìn nhận mình là nhà nước duy nhất của cả năm khu vực dưới quyền cai quản của nhà Thanh. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được thành lập vào năm 1949 và thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại đại lục, vẫn tiếp tục tuyên bố ranh giới cơ bản này, với chỉ ngoại lệ chính là công nhận Mông Cổ (Ngoại Mông) và Tannu Uriankhai (nay là Cộng hòa Tuva của Nga) độc lập. Do vậy, thuật ngữ Trung Quốc bản thổ không còn được sử dụng nhiều tại Trung Quốc.

Mười tám tỉnh dưới thời nhà Thanh vẫn tồn tại, song ranh giới giữa chúng đã thay đổi chút ít. Bắc Kinh và Thiên Tân đã tách khỏi Hà Bắc (đổi tên từ Trực Lệ), Thượng Hải tách khỏi Giang Tô, Trùng Khánh tách khỏi Tứ Xuyên, Ninh Hạ tách khỏi Cam Túc, và Hải Nam tách khỏi Quảng Đông. Quảng Tây nay là một khu tự trị. Các tỉnh được thành lập vào cuối thời nhà Thanh vẫn được giữ: Tân Cương trở thành một khu tự trị, còn ba tỉnh Mãn Châu nay có ranh giới biến đổi khá lớn, trong đó Phụng Thiên được đổi tên thành Liêu Ninh.

Quan điểm dân tộc

nhỏ|Khu vực người Hán (màu nâu) chiếm đa số năm 1983 Trung Quốc bản thổ thường được liên hệ với người Hán (tên gọi của người Hoa Hạ có từ thời nhà Hán), dân tộc chiếm đa số và có ảnh hưởng nhất tại Trung Quốc, và phạm vi của tiếng Hán, một yếu tố quan trọng giúp thống nhất người Hán.

Tuy nhiên, các khu vực của người Hán nay không tương ứng với Mười tám tỉnh thời nhà Thanh. Phần lớn vùng tây nam Trung Quốc, như nhiều khu vực tại Vân Nam, Quảng Tây và Quý Châu có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, như người Choang, người Bạch, người Thổ Gia, người Miêu, hay Bố Y. Người Hán nay chiếm đa số ở ngoài bản thổ tại Đài Loan, hầu hết Mãn Châu, phần lớn Nội Mông, nhiều phần tại Tân Cương và phân bố rải rác tại Tây Tạng, là kết quả do sự khuyến khích di cư vào cuối thời Thanh, Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Dân tộc Hán không hoàn toàn đồng nhất với những người nói tiếng Hán. Nhiều dân tộc phi Hán, như người Hồi và người Mãn nay chỉ sử dụng tiếng Hán song không nhận mình là người Hán. Bản thân tiếng Hán là một thực thể phức hợp, và có thể được mô tả là một hệ gồm các ngôn ngữ có quan hệ với nhau hơn là một ngôn ngữ đơn nhất nếu tiêu chí hiểu lẫn nhau được sử dụng, chính vì vậy tiếng Quan Thoại (1 loại tiếng Hán phổ thông hiện đại) được áp dụng làm ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc từ thời nhà Minh đến nay.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Quan điểm 1: Phạm vi tương đối của Trung Quốc bản thổ vào cuối thời [[nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Theo quan điểm hiện nay; đây là lãnh thổ Trung Quốc
thumb|right|Trung Quốc thumb|[[Cờ năm màu (Ngũ sắc kỳ 五色旗), biểu thị khái niệm Ngũ tộc cộng hòa. ]] thumb|[[Lương Khải Siêu, người đưa ra khái niệm Dân tộc Trung Hoa. ]] [[Vạn Lý Trường Thành,
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
Trong suốt quá trình lịch sử phát triển của mình, **Trung Quốc** có rất nhiều tên gọi khác nhau, kể cả xuất phát từ bên trong lẫn bên ngoài lãnh thổ của nó, và mỗi
nhỏ|Lãnh thổ ước đoán do các chế độ quân chủ Trung Quốc cai trị trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc là một nước quân chủ từ thời tiền sử cho đến tận năm
**Triều đại chinh phục** trong lịch sử của triều đình Trung Quốc đề cập đến một số triều đại thành lập bởi các dân tộc phi Hán mà cai trị một phần hoặc toàn bộ
**Biểu tình bài Nhật tại Trung Quốc năm 2012** là một loạt các cuộc biểu tình bài Nhật Bản được tổ chức ở các thành phố lớn tại Trung Quốc và Đài Loan trong khoảng
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
Tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước diễn ra từ năm 1951 cho tới nay, bao gồm cả tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển, xuất phát từ cách nhìn nhận khác nhau
**Giao tranh Trung Quốc–Ấn Độ năm 2020** là một phần của các cuộc đụng độ quân sự đang diễn ra giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2020, quân
Hình ảnh tái hiện một buổi trình diễn nhạc cụ truyền thống cổ của Trung Quốc (nhã nhạc cung đình [[nhà Thanh)]] nhỏ|Nhóm nghệ sĩ [[người Nạp Tây hòa tấu nhạc cụ cổ truyền]] **Những
**Ẩm thực Trung Quốc** (, ) là một phần quan trọng của văn hóa Trung Quốc, bao gồm ẩm thực có nguồn gốc từ các khu vực đa dạng của Trung Quốc, cũng như từ
nhỏ **Lịch sử giáo dục ở Trung Quốc** bắt đầu từ khi nền văn minh Trung Hoa ra đời. Giới quý tộc thường lập ra các cơ sở giáo dục dành riêng cho con cháu
**Nhân khẩu Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc** đặc trưng bởi một dân số lớn với độ tuổi thanh niên khá nhỏ, một phần là kết quả của "chính sách một con" của đất nước.
**Ủy ban Sự vụ dân tộc Quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** (tiếng Trung: 中华人民共和国国家民族事务委员会, gọi ngắn: 国家民委), viết tắt là **Ủy ban Dân sự**, **Ủy ban Dân tộc**, **Dân ủy Quốc gia**
[[Tập tin:Map of the Chinese Diaspora in the World.svg|thumb|Các quốc gia có dân số đáng kể với tổ tiên là người Hoa.
|300x300px]]**Người Trung Quốc** là những cá nhân hoặc nhóm dân tộc khác nhau
**Tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011** là một phần trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, bắt đầu từ vụ tàu Bình Minh 02 bị các tàu hải
**Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc** (tiếng Hoa:中国天主教爱国会, bính âm: _Zhōngguó Tiānzhǔjiào Àiguó Huì_, âm Hán-Việt: _Trung Quốc Thiên Chúa giáo Ái quốc Hội_; viết tắt theo tiếng Anh là **CPA**, **CPCA**, hoặc **CCPA**)
**Quan hệ Trung Quốc - Sri Lanka** đề cập đến quan hệ song phương giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Sri Lanka.Có một đại sứ quán Trung Quốc ở Colombo và một đại
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
**Ban liên lạc đối ngoại Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc**, tên gọi giản lược **Trung liên bộ** (chữ Anh: _International Department, Central Committee of CPC_, chữ Trung giản thể: 中国共产党中央委员会对外联络部 hoặc
**Đại học Công nghệ Quốc phòng Trung Quốc** (tên tiếng Anh: **National University of Defense Technology** (**NUDT**; ) trực thuộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc, là một trường đại học trọng điểm quốc gia
**Người Trung Quốc gốc Nhật Bản** là người Nhật Bản hải ngoại hay còn gọi là **Nhật kiều** và người di cư và con cháu của họ cư trú tại Trung Quốc. Có 127.282 công
**Lịch sử Trung Quốc** đề cập đến Trung Hoa, 1 trong 4 nền văn minh cổ nhất thế giới, bắt nguồn từ lưu vực phì nhiêu của hai con sông: Hoàng Hà (bình nguyên Hoa
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Trung Hoa Dân Quốc** (Tiếng Trung: 中華民國; Bính âm: Zhōnghuá Mínguó; Tiếng Anh: Republic Of China) là một quốc gia cộng hòa đã kiểm soát chủ quyền với toàn bộ Trung Quốc từ năm 1912
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc** (_Quan hệ Việt-Trung_, ) là mối quan hệ giữa hai nước láng giềng vì có chung biên giới trên bộ và trên biển, hai nước có chung thể
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
**Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc** ở Đại lục (gồm cả các lãnh thổ riêng biệt như Hồng Kông và Ma Cao) hiện tại được Tòa Thánh Vatican tổ chức theo không gian địa
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
Từ ngày 28 tháng 1 đến ngày 4 tháng 2 năm 2023, một khinh khí cầu tầm cao lớn màu trắng do Trung Quốc vận hành đã được quan sát thấy trên không phận Bắc
**Điển tịch cổ điển Trung Quốc** () hoặc đơn giản là **Điển tịch** (典籍) là thuật ngữ đề cập đến các văn bản Trung Quốc có nguồn gốc từ trước sự kiện thống nhất đế
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**Lịch sử chiến tranh Việt Nam–Trung Quốc** là những cuộc xung đột, chiến tranh, từ thời cổ đại đến thời hiện đại giữa các chính thể trong quá khứ của những quốc gia Việt Nam
thumb|Quan điểm về Trung Quốc năm 2022, dựa trên Chỉ số Nhận thức Dân chủ
**Chủ nghĩa bài Trung Quốc** hay còn gọi là, **Chủ nghĩa bài
thumb|Bảng đánh dấu biên giới Trung Quốc. thumb|Trạm canh gác biên giới tại bờ biển ở [[Châu Hải, Quảng Đông, vượt qua là Ma Cao.]] thumb|right|Vài mẫu cổng biên giới nhỏ trước đây của Trung
nhỏ|phải|Bàn thờ [[Yết Kiêu tại Đền thờ Đức Thánh Trần, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh]] **Bàn thờ** hay **bàn cúng**, **bàn thiêng** là một cấu trúc được sử dụng trong các nghi lễ
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Trung Quốc: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính # Năm 299 TCN,
**Đồng tính luyến ái** trong nền văn hóa Trung Hoa còn tương đối chưa rõ ràng mặc dù lịch sử có những ghi chép về đồng tính luyến ái trong các triều đại phong kiến.
**Chư hầu** là một từ xuất phát từ chữ Hán (諸侯), trong nghĩa hẹp là để chỉ tình trạng các vị vua của các quốc gia thời Tiên Tần bị phụ thuộc, phải phục tùng
**Hà Nam** (), là một tỉnh ở miền trung của Trung Quốc. Tên gọi tắt là _Dự_ (豫), đặt tên theo Dự châu, một châu thời Hán. Tên gọi Hà Nam có nghĩa là _phía
**Hiệp hội Cơ Đốc giáo Trung Quốc** (chữ Anh: _China Christian Council_), gọi tắt là **Toàn quốc Cơ hiệp**, là một tổ chức giáo vụ cấp quốc gia của Hội Thánh Tin Lành Tam Tự
**Giáo hoàng Piô XII và Trung Quốc** nói về quan hệ giữa tòa thánh và Trung Quốc từ 1939-1958. Nó bắt đầu từ sự công nhận những lễ nghi của Trung Quốc bởi tòa thánh
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ** () là đội tuyển cấp quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ do Liên đoàn bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ, được thành lập năm 1923 và là
**Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc** () là cơ quan kiểm tra kỷ luật trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, giữ gìn kỷ luật, thúc đẩy