✨Giáo hoàng Piô XII và Trung Quốc

Giáo hoàng Piô XII và Trung Quốc

Giáo hoàng Piô XII và Trung Quốc nói về quan hệ giữa tòa thánh và Trung Quốc từ 1939-1958. Nó bắt đầu từ sự công nhận những lễ nghi của Trung Quốc bởi tòa thánh vào năm 1939, việc phong chức hồng y Trung Quốc đầu tiên vào năm 1946, sự hình thành hệ thống cấp bậc trong giới tu hành công giáo Rôma, sự đàn áp tôn giáo và hủy bỏ nhà thờ công giáo Rôma đầu thập niên 1950 và việc thiết lập một nhà thờ Trung Quốc yêu nước, theo xã hội chủ nghĩa, và độc lập với Vatican vào năm 1957.

Nghi thức Trung Quốc

Trong hàng trăm năm, những hoạt động của Giáo hội Công giáo Rôma ở Trung Quốc gặp nhiều khó khăn vì nó không công nhận những phong tục Nho giáo thờ cúng ông bà, người thân đã mất. Đối với người Trung Quốc đây là một nghi thức cổ truyền, nhưng đối với Giáo hội Công Giáo, đó là một lễ nghi mà có xung đột với giáo lý Công giáo. Vì vậy Giáo hội Công giáo ít phát triển ở Trung Quốc. Ngay trong năm đầu khi được bầu, Giáo hoàng Piô XII đã thay đổi chính sách lớn lao. Theo sự yêu cầu của ông, giáo triều Rôma đã ban ra một chỉ thị mới vào ngày 8 tháng 12 năm 1939, theo đó những phong tục Trung Quốc không còn được xem là mê tín nữa, mà coi đó là một cách tôn kính để bày tỏ sự kính trọng họ hàng và như vậy được cho phép cho những người theo đạo Công giáo Rôma thực hành. Sắc lệnh của giáo hoàng đã thay đổi tình trạng tu hành ở Trung Quốc, và chính phủ Quốc gia Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tòa thánh Vatican trong tháng 6 năm 1942, và vị sứ thần đầu tiên đã trình quốc thư vào tháng 1 năm 1943. Khi Giáo hội Công giáo bắt đầu phát triển mạnh mẽ, Pius cho thành lập hàng giáo phẩm địa phương và vinh thăng tước vị Hồng y cho tổng giám mục Tôma Điền Canh Tân (Thomas Tien Ken-sin) SVD

Việc thành lập chính phủ cộng sản 1949 đã làm những tiến triển ngưng hẳn lại, đưa tới sự đàn áp hàng ngàn người tu hành và trung thành ở Trung Quốc. Một nhà thờ Trung Quốc yêu nước được thành lập. Từ lúc đó, nhà thờ Công giáo bị đàn áp, chỉ còn lại một nhóm rất nhỏ so với con số trước đó, và chỉ hoạt động bí mật. Sự mất mát rất đáng kể. Thí dụ, vào năm 1948, nhà thờ công giáo điều hành 254 nhà trẻ mồ côi và 196 nhà thương với 81628 giường bệnh.

Đàn áp

Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao Trạch Đông chính thức tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Hiến pháp nước này có từ tháng 9 năm 1949 bảo đảm tất cả mọi tự do, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo và đã cấm kỳ thị những người theo đạo. Tuy nhiên, nhà cầm quyền, theo đuổi chủ nghĩa Marxist, có ác cảm với tôn giáo và đã ủng hộ trừ tiệt nó. Đảng cộng sản nhanh chóng cho là đạo giáo cũng ngang hàng với sự trung thành về chính trị và ý thức hệ, và đặc biệt có ác cảm với những tổ chức tôn giáo mà họ không thể kiểm soát được.

Tại các thành phố Trung Quốc, có sự khoan dung đối với các nhà thờ Kitô. Nhưng ở các vùng nông thôn, đàn áp bắt đầu vào năm 1950. Những luật mới được ban ra để chống lại các hoạt động phản cách mạng từ 23 tháng 7 năm 1950 và tháng 2 năm 1951 tạo ra những công cụ hợp pháp để chống lại "kẻ thù nhân dân". Các tu sĩ công giáo Rôma càng ngày càng bị giám sát. Giám mục và linh mục bị buộc phải làm những việc tay chân thấp kém để sinh sống.

Khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, cuộc chiến mà những quốc gia phương Tây như Hoa Kỳ đóng một vai trò chính yếu, các nhóm truyền đạo ngoại quốc, đa số là người Tây phương, bị cáo buộc là gián điệp ngoại quốc, sẵn sàng đưa đất nước vào tay các thế lực đế quốc. Điều này gây khó khăn đặc biệt cho nhà thờ công giáo Rôma, vì giáo hoàng được xem là một đối tượng ngoại quốc.

Nhà thờ công giáo Rôma được xem là đặc biệt đe dọa vì hệ thống cấp bực của nó, mạng lưới quốc gia và khả năng ngăn chận sự xâm nhập của chính quyền. Nhà nước đòi hỏi người công giáo phải thề trung thành hoàn toàn với chính quyền, thay thế cho sự trung thành với giáo hoàng; không được phép trung lập.

Năm 1951, đại sứ giáo hoàng, tổng giám mục Riberi, bị trục xuất khỏi Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc định nghĩa phong trào 3 tự trị (Lãnh đạo, tài chính và giáo huấn). Từ khi các giám mục xem đó là một dự tính thù nghịch hầu để tổ chức các nhà tu và để từ bỏ tòa thánh mượn cớ là vì lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, họ chống đối lại. Vào năm 1953, nhiều giám mục Trung Quốc và ngoại quốc, các linh mục và những người phụ tá bị bắt giam, nhiều người đã chết trong tù. Người ta không biết được con số chính xác.

Giáo hoàng đối đáp

Giáo hoàng Piô XII, trong thông điệp vào ngày 7 tháng 10 năm 1954, báo cho các linh mục Trung Quốc biết là một nhà thờ quốc gia sẽ không còn là công giáo nữa. Về vấn đề tổ chức và tài chính tự trị thì ông mềm dẻo hơn, cho là việc truyền đạo và các hoạt động giúp đỡ tài chính chỉ là một việc chuyển tiếp. Việc huấn luyện các cơ sở nội địa và hình thành một giới tu hành luôn được ưu tiên. Đồng thời người ta không nên coi nhẹ sự rộng rãi của các tín đồ Kitô giáo khác, mà tài trợ các hoạt động truyền đạo. Các linh mục ngoại quốc tới Trung Quốc nhân danh là tín đồ của Jesus, chứ không phải là tay sai của các thế lực thù địch. Về vấn đề tự trị giáo huấn, ông đồng ý, nó phải khác biệt và thích ứng với người Trung quốc và với phong tục tập quán cổ truyền của họ.

Hội Công giáo yêu nước Trung Quốc

Tháng 7 năm 1957, các đại biểu Trung Quốc đã thành lập Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, cắt đứt những liên hệ với Tòa Thánh Vatican, bởi vì họ cho rằng Vatican là một dụng cụ của tư bản Hoa Kỳ (Mặc dù những giáo huấn xã hội Công giáo Rôma lên án cả chủ nghĩa tư bản lẫn xã hội chủ nghĩa và sự gây hấn. Những "khóa học cải tạo tình nguyện" kéo dài được lập ra cho các nhà tu và người theo đạo. Các linh mục và giám mục được khuyến khích học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, những bài giáo huấn của chủ tịch Mao và các chính sách để mà chỉ dạy các tín đồ vào mỗi chủ nhật. Những thành phần mà họ xem "phản cách mạng" là các tu sĩ từ chối tham dự vào các "chương trình yêu nước" Lần lượt các giáo phận sau khi giám mục chính tòa bị tước quyền thì cả những người kế vị họ cũng bị bẳt giam, mặc dù có những phản đối mạnh mẽ của Giáo hoàng Piô XII, trong thông điệp gởi các hồng y cuối cùng của ông.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Giáo hoàng Piô XII và Trung Quốc** nói về quan hệ giữa tòa thánh và Trung Quốc từ 1939-1958. Nó bắt đầu từ sự công nhận những lễ nghi của Trung Quốc bởi tòa thánh
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Thánh Piô X, Giáo hoàng** (Tiếng Latinh: _Sancte Pie X_) (2 tháng 6 năm 1835 – 20 tháng 8 năm 1914), tên khai sinh: **Melchiorre Giuseppe Sarto** là vị Giáo hoàng thứ 257 của Giáo
**Giáo hoàng Piô VIII** (20 tháng 11 năm 1761 – 1 tháng 12 năm 1830), là vị giáo hoàng thứ 253 của Giáo hội Công giáo tên lúc sinh là **Francesco Saverio Castiglioni**, tại vị
**Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII** (Tiếng Latinh: _Ioannes PP. XXIII_; tiếng Ý: _Giovanni XXIII_, tên khai sinh: **Angelo Giuseppe Roncalli**, 25 tháng 11 năm 1881 – 3 tháng 6 năm 1963) là vị Giáo hoàng
**Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc** (tiếng Hoa:中国天主教爱国会, bính âm: _Zhōngguó Tiānzhǔjiào Àiguó Huì_, âm Hán-Việt: _Trung Quốc Thiên Chúa giáo Ái quốc Hội_; viết tắt theo tiếng Anh là **CPA**, **CPCA**, hoặc **CCPA**)
**Gioan Phaolô II** (hay **Gioan Phaolô Đệ Nhị;** tiếng Latinh: _Ioannes Paulus II_; tên khai sinh: **Karol Józef Wojtyła,** ; 18 tháng 5 năm 1920 – 2 tháng 4 năm 2005) là vị giáo hoàng
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Thánh Giáo hoàng Phaolô VI** (tiếng Latinh: _Paulus VI_; tiếng Ý: _Paolo VI_, tên khai sinh: **Giovanni Battista Enrico Antonio Maria Montini**; 26 tháng 9 năm 1897 – 6 tháng 8 năm 1978) là giáo
**Clêmentê XI** (Latinh: **Clemens XI**) là vị giáo hoàng thứ 243 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1700 và ở ngôi Giáo
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Francesco Forgione,** còn được biết đến với tên **Thánh Piô Năm Dấu**, **Cha Piô** (tiếng Ý: _Padre Pio_)**, Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina** và **Thánh Piô
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Sắc lệnh chống chủ nghĩa cộng sản** là một văn kiện của Hội thánh Công giáo do Thánh bộ Thánh vụ (tiền thân của Bộ Giáo lý Đức tin) ban hành vào năm 1949 sau
**Giáo hội Công giáo ở Liban** là một phần của Giáo hội Công giáo Rôma có phạm vi trên toàn thế giới và dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng tại Rôma. Có
**Giáo phận Hàm Hưng** (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Bắc Triều Tiên. ## Địa giới Địa giới giáo phận bao gồm các
**Giáo hội Công giáo ở Israel và Lãnh thổ Palestine** là một phần của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ, trong sự hiệp thông đầy đủ với Tòa thánh ở Rome. ## Tổng quan Có
right|thumb|Tòa nhà Tòa giám mục Tổng giáo phận Đài Bắc ở thành phố Đài Bắc **Tổng giáo phận Đài Bắc** (; ) là một Tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Đài
**Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu** (tiếng Latinh: ; thường gọi là: **Thánh Tâm Chúa Giêsu**) là một truyền thống sùng kính phổ biến trong Giáo hội Công giáo Rôma, qua việc liên tưởng trái
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Tôma Điền Canh Tân S.V.D.** (1890 - 1967; tiếng Trung:**田耕莘**, tiếng Anh:_Thomas Tien-ken-sin_) là một Hồng y Tiên khởi người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vị trí Tổng
**Công quốc Mantua** (tiếng Ý: _Ducato di Mantova_; tiếng Lombard: _Ducaa de Mantua_) là một công quốc ở Lombardia, miền Bắc nước Ý ngày nay. Công tước đầu tiên của nó là Federico II Gonzaga,
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Thành Vatican**, tên chính thức là **Thành quốc Vatican** (, , ) là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ bao gồm một vùng đất có tường bao kín nằm trong lòng thành
Thánh **Maria Faustyna Kowalska Thánh Thể** OLM (tên khai sinh là **Helena Kowalska**; 1905 - 1938 ), được gọi phổ biến là **Faustina**, là một nữ tu Công giáo La Mã người Ba Lan và
**Galileo di Vincenzo Bonaiuti de' Galilei** (; phiên âm tiếng Việt: **Ga-li-lê**; sinh ngày 15 tháng 2 năm 1564 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1642), cũng thường được gọi ngắn gọn là **Galileo**, là
**Công đồng đại kết Vatican lần thứ hai**, gọi tắt là **Công đồng Vatican lần thứ hai** hay **Vatican II**, là công đồng đại kết thứ 21 của Giáo hội Công giáo La Mã. Công
**Các thánh tử đạo Việt Nam** là danh sách những tín hữu Công giáo người Việt hoặc thừa sai ngoại quốc được Giáo hội Công giáo Rôma tuyên thánh với lý do tử đạo. Trong
**Alfonso Maria de' Liguori** (tên Việt phiên âm: **An Phong** hoặc **Anphonsô**, 1696-1787) là người sáng lập ra Dòng Chúa Cứu Thế, Giám mục Sant'Agata de' Goti, là một trong những nhà thần học luân
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
**Tòa Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam** (hay còn gọi là **Tòa Khâm sứ Vatican tại Việt Nam**) là cơ quan đại diện của Tòa Thánh tại Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn
Biểu trưng Phong trào Đại kết. **Phong trào Đại kết** đề cập tới những nỗ lực của các Kitô hữu hoặc các truyền thống giáo hội khác nhau nhằm phát triển mối quan hệ gần
**Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp**, là một danh hiệu của Mẹ Maria được tuyên xưng bởi Giáo hoàng Piô IX, kết hợp với một biểu tượng nghệ thuật Byzantine (Đông La Mã) nổi tiếng cùng
**Hermann Wilhelm Göring** có tên phiên âm dựa theo tiếng Đức là **Héc-man Gơ-rinh** (hay **Goering**; ; 12 tháng 1 năm 1893 – 15 tháng 10 năm 1946) là một chính trị gia người Đức,
**Thánh Giuse** (hay **Yuse** từ tiếng Ý **Giuseppe**, từ tiếng Do Thái: יוֹסֵף "Yosef"; tiếng Hy Lạp: Ἰωσήφ; từ tiếng Anh: **Joseph**,đôi khi cũng được gọi là **Thánh Giuse Thợ**, hoặc **Thánh Cả Giuse**, **Giuse
phải|Khăn liệm Turin. **Khăn liệm Turin** hoặc **Vải liệm Turin** (tiếng Ý: _Sindone di Torino, Sacra Sindone_) là một tấm vải lanh mang hình ảnh của một người đàn ông dường như đã bị chấn
nhỏ|phải|Đức Mẹ Cột Trụ **Đức Mẹ Trụ Cột** (Tiếng Tây Ban Nha: Nuestra Señora del Pilar) là tên được đặt cho Maria được cho là đã hiện ra một cách kỳ diệu ở Zaragoza, Tây
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
**Văn khố Tông toà Vatican** (chữ Latin: _Archivum Apostolicum Vaticanum_; tiếng Ý: _Archivio Apostolico Vaticano_) là kho trong Thành Vatican lưu trữ tất cả giấy tờ được Toà Thánh ban bố, cũng chứa các công
**Đức Mẹ Lộ Đức** là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra
_Đức Mẹ núi Camêlô_ vẽ bởi [[Pietro Novelli, 1641.]] **Đức Mẹ núi Camêlô** còn được biết đến với tên gọi **Đức Mẹ núi Cát Minh** là một danh hiệu dành cho Maria trong vai trò
**Đức Mẹ Guadalupe** () còn được biết với tên gọi **Đức Trinh Nữ Guadalupe** () là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Hai tài liệu, được xuất
nhỏ|Khu đất 42 Nhà chung đầu năm 2007 (tòa khâm sứ Hà Nội cũ) **Tòa Khâm sứ Hà Nội** là tòa nhà tọa lạc tại số 42 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, Thủ đô
**Giuse Maria Trịnh Văn Căn** (19 tháng 3 năm 1921 – 18 tháng 5 năm 1990) là một hồng y và dịch giả Công giáo người Việt Nam. Ông cũng là Tổng giám mục thứ
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
Habemus Papam Giáo hoàng Phanxicô (2013) **Habemus Papam **("Chúng ta đã có Giáo hoàng!") là lời công bố bằng tiếng Latinh do hồng y thị thần đưa ra khi một Mật nghị Hồng y đã
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:John_Paul_II_funeral_long_shot.jpg|nhỏ|288x288px|**Các hồng y mặc [[Phẩm phục Công giáo|phẩm phục đỏ trong lễ tang Giáo hoàng Gioan Phaolô II**]] **Hồng y đoàn**, chính thức là **Hồng y thánh đoàn**, là cơ quan của tất cả các
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1939. ## Tháng 9 năm 1939 thumb|Các quốc gia Đồng Minh và phe Trục