✨Điển tịch cổ điển Trung Quốc
Điển tịch cổ điển Trung Quốc () hoặc đơn giản là Điển tịch (典籍) là thuật ngữ đề cập đến các văn bản Trung Quốc có nguồn gốc từ trước sự kiện thống nhất đế quốc Trung Hoa bởi triều đại nhà Tần năm 221 trước Công Nguyên, cụ thể là Tứ Thư Ngũ Kinh theo truyền thống Lý học mà bản thân chúng là một bản tóm tắt thông thường của Thập tam kinh. Tất cả các văn bản trước đời Tần này đều được viết bằng văn ngôn (Hán văn cổ điển). Cả ba bộ kinh gọi chung là điển tịch (, , jīng, lit. "kinh").
Thuật ngữ điển tịch cổ điển Trung Quốc có khả năng được sử dụng rộng rãi để chỉ các văn bản được viết bằng bạch thoại hoặc có thể được sử dụng theo nghĩa hẹp để chỉ các văn bản được viết bằng chữ Trung Quốc cổ điển thịnh hành thời đó, cho tới tận lúc triều đại cuối cùng của nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912. Những văn bản này có thể bao gồm Sử (史, tác phẩm lịch sử), Tử (子, tác phẩm triết học thuộc các trường phái tư tưởng khác ngoài Nho giáo nhưng cũng bao gồm các tác phẩm về nông nghiệp, y học, toán học, thiên văn học, bói toán, phê bình nghệ thuật, các tác phẩm lẫn lộn khác) và Tập (集, tác phẩm văn học) cũng như việc trau dồi Tinh (精, Y học Trung Quốc).
Vào thời nhà Minh và nhà Thanh, bộ Tứ Thư Ngũ Kinh là chủ đề của chương trình học bắt buộc của các học giả Nho giáo, những người có nguyện vọng đỗ đạt trong các kỳ thi Khoa Cử để ra làm quan. Bất kỳ cuộc thảo luận chính trị nào cũng đều lấy dẫn chứng từ các nguồn tài liệu này làm căn bản, và không ai có thể trở thành một sĩ đại phu (hoặc trong một số thời kỳ, kể cả là tướng lĩnh quân đội) mà không thuộc nằm lòng các văn thư này. Thông thường, trẻ em khi bắt đầu đi học phải học thuộc lòng các ký tự chữ Hán trong cuốn Tam tự kinh (三字經) và Bách gia tính (百家姓). Sau đó mới học đến các cuốn khác. Giới sĩ phu ưu tú do đó cùng chia sẻ một nền tảng văn hoá và tập hợp các giá trị chung.
Thời nhà Tần
Mất mát các tư liệu vào cuối đời nhà Tần
Theo như Sử ký của Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thuỷ Hoàng, Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Trung Hoa, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên, thừa tướng của ông là Lý Tư đề nghị dẹp bỏ nghị luận trí thức để thống nhất tư tưởng và quan điểm chính trị.
Điều này được cho là đã tàn phá các chuyên luận triết học của nhiều trường phái thời kỳ Bách Gia Chư Tử, với mục tiêu nhằm củng cố triết lý cai trị chính thức của nhà Tần là Pháp gia. Có ba loại sách bị Lý Tư xem là nguy hiểm nhất về mặt chính trị. Đó là thơ ca, lịch sử (đặc biệt là ghi chép lịch sử của các quốc gia khác ngoài Tần), và triết học. Các tuyển tập thơ và ghi chép lịch sử cổ đại có nhiều câu chuyện liên quan đến các nhà cai trị tài đức thời xưa. Lý Tư cho rằng nếu mọi người đọc những văn bản này, khả năng là họ sẽ vọng tưởng về quá khứ và trở nên không hài lòng với hiện tại. Lý do cho việc đối chọi đàn áp các trường phái triết học khác nhau là do chúng ủng hộ các tư tưởng chính trị thường không tương thích với chế độ toàn trị.
Những sử gia hiện đại lại nghi ngờ các chi tiết của câu chuyện, khởi nguyên lần đầu tiên hơn một thế kỷ sau trong cuốn Sử ký Tư Mã Thiên chính thức vào thời nhà Hán. Michael Nylan nhận định rằng, dẫu cho thuộc tính thần thoại của nó, truyền thuyết Đốt sách chôn nho không được xem xét là chặt chẽ. Nylon gợi ý rằng nguyên do các học giả nhà Hán cáo buộc nhà Tần đốt bỏ Ngũ Kinh đạo Khổng một phần là để "phỉ báng" thể chế mà họ đã đánh bại và một phần là do các học giả nhà Hán hiểu sai bản chất của văn tự, vì chỉ sau khi thành lập nhà Hán, Tư Mã Thiên mới gọi Ngũ Kinh là "Nho học". Nylan cũng chỉ ra, nhà Tần đã bổ nhiệm các học giả cổ điển, những chuyên gia về Kinh Thi và Kinh Thư, điều này có nghĩa là các văn thư ấy có thể đã được miễn trừ khỏi bị diệt bỏ, và cuốn Lễ Ký và Tả Truyện đã không chứa đựng lời lẽ tôn vinh các chế độ phong kiến chiến bại mà Hoàng đế đầu tiên đã lấy làm lý do tiễu bỏ chúng. Nylon gợi ý thêm rằng, câu chuyện có thể dựa trên sự thật là cung điện của nhà Tần đã bị san phẳng vào năm 207 trước Công Nguyên kèm theo việc nhiều văn thư chắc chắn là đã bị thất lạc ở thời điểm đó. Martin Kern bổ sung, văn tự nhà Tần và văn tự đầu nhà Hán thường xuyên trích dẫn các cuốn Kinh, đặc biệt là Kinh Thi và Kinh Thư, mà điều này là hoàn toàn không khả thi nếu như chúng đã bị đốt bỏ như được ghi chép lại.
Thời Tây Hán
Ngũ Kinh
Ngũ Kinh () là bộ năm cuốn sách Trung Hoa thời tiền Tần đã trở thành một phần của chương trình giáo huấn được triều đình phù trợ dưới triều đại Tây Hán, triều đại đã lấy Nho học đạo Khổng làm hệ tư tưởng chính quy. Chính trong thời kỳ này mà lần đầu tiên bộ kinh thư được gọi chung thành một tuyển tập là Ngũ Kinh (Năm cuốn sách Kinh điển). Một số văn bản đã từng nổi bật trước đó vào thời Chiến Quốc. Mạnh Tử, một trong những học giả Nho giáo hàng đầu, xem bộ kinh Xuân Thu cũng không kém phần quan trọng so với các biên niên sử bán huyền thoại của các thời đại trước đó.
; Kinh Thi (經詩) hoặc Thi Kinh (詩經) : Một tuyển tập gồm 305 bài thơ, được chia làm 160 bài hát dân ca, 105 bài hát lễ tế để hát trong các buổi lễ cung đình, 40 bài hát thần linh ca và điếu ca để hát trong các buổi tế anh hùng và vong linh tổ tiên của hoàng tộc. ; Kinh Thư (書經; "thư kinh") hay còn gọi là Thượng Thư (尚書) : Một tuyển tập những tư liệu và phát ngôn được cho là của các nhà cai trị và quan lại thời kỳ đầu nhà Chu và trước đó. Đây có thể là văn bản ký thuật cổ xưa nhất Trung Hoa, khả năng là xuất phát từ niên đại thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Nó bao gồm các trích dẫn văn xuôi Trung Hoa đầu tiên. ; Lễ Ký (禮記) hay còn gọi là Lễ Kinh (禮經) : Mô tả các nghi thức cổ xưa, các hình thức xã hội và nghi lễ cung đình. Phiên bản được nghiên cứu ngày nay là phiên bản được làm lại bởi các học giả thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên chứ không phải văn bản gốc, được cho là do chính Khổng Tử hiệu đính. ; Kinh Dịch, tức Dị Kinh (易經) : Cuốn sách chứa đựng một hệ thống bói toán tử vi tương đương với phong thuỷ Geomancy của phương Tây hoặc hệ thống Ifá của Tây Phi. Nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn hoá phương Tây và Đông Á hiện đại. ; Kinh Xuân Thu (春秋) : Ghi ghép lịch sử của nước Lỗ, quốc gia bản địa của Khổng Tử, 722–481 trước Công Nguyên.
Cho tới tận thời Tây Hán, các tác giả thường sẽ liệt kê các sách Kinh theo thứ tự Kinh Thi - Kinh Thư - Lễ Ký - Kinh Dịch - Xuân Thu. Tuy nhiên, kể từ thời Đông Hán, thứ tự mặc định lại chuyển thành Kinh Dịch - Kinh Thư - Kinh Thi - Lễ Ký - Xuân Thu.
Thư viện triều đình nhà Hán
nhỏ|Vào thời [[nhà Hán, Lưu Hướng đã cho xuất bản văn thư cho nhiều danh tác cổ điển của Trung Hoa như Lễ Ký và Liệt nữ truyện]] Năm 26 trước Công Nguyên, theo chiếu chỉ của Hoàng đế, Lưu Hướng (77–6 trước Công Nguyên) đã biên soạn thư mục đầu tiên của thư viện triều đình, Biệt Lục Bielu), và là người biên soạn đầu tiên của cuốn Sơn hải kinh (山海經), bộ này sau đó được hoàn thành bởi con trai của ông. Họ Lưu cũng đồng thời hiệu đính nhiều tuyển tập các câu chuyện và tiểu sử, ví dụ như bộ Liệt nữ truyện (列女傳). Một thời gian dài, ông còn bị hiểu nhầm là đã đồng biên soạn bộ Liệt tiên truyện (列仙傳), một tuyển tập các bài thánh tích và văn tế Nho giáo. Lưu Hướng cũng là một nhà thơ - ông được cho là đã viết Cửu Thán (九歎), văn bản có trong tuyển tập Sở Từ (楚辭).
Các tác phẩm do Lưu Hướng hiệu đính và biên soạn bao gồm:
Công việc được tiếp tục bởi người con trai của ông, Lưu Hâm (học giả), người đã hoàn thành nhiệm vụ sau khi cha đã tạ thế.
Thời nhà Tống
Tứ Thư
nhỏ|[[Zhu Xi|Chu Hy (1130-1200), người đã biên soạn danh sách bốn quyển dưới triều đại nhà Tống.]] Tứ Thư () là những văn bản cổ điển của Trung Quốc minh họa hệ thống các giá trị và niềm tin cốt lõi trong Nho giáo. Chúng đã được Chu Hy (朱熹; 1130 – 1200) chọn lựa dưới triều đại nhà Tống nhằm giới thiệu chung về tư tưởng Nho giáo. Thời nhà Minh và nhà Thanh, chúng trở thành tri thức cốt lõi của chương trình giảng dạy chính thức cho các kỳ thi Khoa Cử. Bộ Tứ Thư gồm có:
; Đại Học (大學) : Ban đầu chỉ là một chương trong sách Lễ Ký. Nó bao gồm một bài viết ngắn trọng yếu được cho là của Khổng Tử cùng chín chương bình luận của Tăng Tử, một trong những đệ tử của Khổng Tử. Tầm quan trọng của cuốn Đại Học được minh họa qua lời nói đầu của Tăng Tử rằng đây chính là cửa ngõ của việc học. Nó có ý nghĩa quan trọng bởi nhiều chủ đề triết học và tư duy chính trị Trung Quốc mà nó thể hiện, và do đó có ảnh hưởng cực kỳ sâu rộng lên hệ tư tưởng Trung Quốc cổ điển và hiện đại. Chính quan, tu thân và khám nghiệm đều có liên hệ với nhau.
; Trung Dung (中庸) : Một chương khác trong sách Lễ Ký, được cho là của Khổng Cấp (孔伋; 483 TCN – 402 TCN), cháu trai Khổng Tử. Mục đích của quyển sách nhỏ này, gồm 33 chương, là chứng minh sự hữu hiệu của đường lối vàng ngọc nhằm đạt được đức hạnh hoàn hảo. Nó tập trung vào đường lối của Đạo (道), được định sẵn bởi luật trời, không chỉ riêng cho người cai trị mà còn cho tất cả mọi người. Tuân theo luật trời qua sự hiếu học và huấn thị sẽ tự động đạt đến cảnh giới đức hạnh Khổng giáo hay còn gọi là Đức (德) trong Hán tự. Vì Luật Trời đã định sẵn con đường thành đạo cho nên chỉ cần biết đâu là chính đạo thì việc tiếp bước các bậc thánh hiền ngày xưa cũng không khó lắm.
; Luận Ngữ (論語) : Một tuyển tập các phát ngôn của Khổng Tử và các đồ đệ của ông, cũng như những cuộc thảo luận mà họ đã có với nhau. Kể từ thời Khổng Tử, Luận Ngữ đã ảnh hưởng sâu sắc đến triết học và các giá trị đạo đức của Trung Quốc và sau này là các nước Đông Á khác. Các kỳ thi Khoa Cử, bắt đầu từ triều đại nhà Tùy và sau cùng bị bãi bỏ với sự thành lập của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhấn mạnh nghiên cứu Nho học và kỳ vọng các thí sinh trích dẫn và áp dụng lời của Khổng Tử trong các bài luận của mình.
; Mạnh Tử (孟子) : Một tập hợp các cuộc đối thoại giữa học giả Mạnh Tử và các vị quân vương thời bấy giờ. Trái ngược với những lời nói của Khổng Tử, vốn ngắn gọn và súc tích, cuốn Mạnh Tử bao gồm các đoạn hội thoại dài cùng việc sử dụng nhiều văn xuôi.
Thời nhà Minh
Thập Tam Kinh (十三經)
Chương trình giảng dạy chính thức của hệ thống Khoa Cử từ thời nhà Tống trở đi là Thập Tam Kinh. Tổng cộng, những tác phẩm này chứa tổng cộng hơn 600.000 ký tự phải học nằm lòng để vượt qua kỳ thi. Hơn nữa, những tác phẩm này đi kèm với bình luận và chú thích mở rộng, chứa khoảng 300 triệu ký tự theo một số ước tính.
- Kinh Dịch (易經 Yìjīng)
- Thư Kinh (書經 Shūjīng)
- Kinh Thi (詩經 Shījīng)
- Tam Lễ (三禮 Sānlǐ) Chu Lễ (周禮 Zhōulǐ) Nghi Lễ (儀禮 Yílǐ) Lễ Ký (禮記 Lǐjì) ** Chương Đại Học (大學 Dà Xué) Chương Trung Dung (中庸 Zhōng Yōng)
- Tam Luận về Kinh Xuân Thu Tả Truyện (左傳 Zuǒzhuàn) Công Dương Truyện (公羊傳 Gōngyáng Zhuàn) ** Cốc Lương Truyện (穀梁傳 Gǔliáng Zhuàn)
- Luận Ngữ (論語 Lúnyǔ)
- Hiếu Kinh (孝經 Xiàojīng)
- Nhĩ Nhã (爾雅 Ěryǎ)
- Mạnh Tử (孟子 Mèngzǐ)
Danh sách các Văn tự Cổ điển
Trước năm 221 trước Công Nguyên
Thông thường, rất khó hoặc gần như là không thể định niên chính xác các tác phẩm, văn tự thời tiền Tần hơn niên đại "Tiền Tần" của chúng, một giai đoạn trải dài suốt 1000 năm. Thông tin thời Trung Quốc cổ đại thường được truyền miệng và được truyền lại từ nhiều thế hệ trước nên hiếm khi được viết ra. Do đó, bố cục của các văn bản càng cổ đại thì càng khó mà theo trình tự thời gian như được sắp xếp và trình bày bởi các "tác giả" được cho là của chúng.
Vì thế, danh sách dưới đây được sắp xếp theo thứ tự tìm thấy trong Tứ khố toàn thư, thư viện cung đình của triều đại nhà Thanh. Bộ toàn thư này phân loại tất cả các tác phẩm thành 4 nhánh cấp cao nhất: Kinh điển Nho học và văn thư thứ cấp của chúng; Lịch sử; Triết học; Thơ ca. Ngoài ra còn có các danh mục phụ trong mỗi nhánh, nhưng do số lượng tác phẩm tiền Tần trong các nhánh Kinh điển, Lịch sử và Thơ ca ít nên các danh mục phụ chỉ được sao chép lại cho nhánh Triết học.
Nhánh kinh điển
Nhánh sử học
Nhánh triết học
Thơ ca
Sau năm 206 trước Công Nguyên
- "Nhị thập tứ sử", một bộ sưu tập 24 bộ sử thư chính thống của Trung Quốc do các triều đại khác nhau biên soạn: Sử Ký (史記), do Tư Mã Đàm (司馬談) và Tư Mã Thiên (司馬遷) Hán Thư (漢書), do Ban Bưu (班彪), Ban Cố (班固) và Ban Chiêu (班昭) Hậu Hán Thư (後漢書), do Phạm Diệp (范曄) dẫn đầu chủ biên Tam Quốc Chí (三國志), do Trần Thọ (陳壽) Tấn Thư (晉書) do Phòng Huyền Linh (房玄齡) dẫn đầu chủ biên Tống Thư (宋書) -- Các triều Nam Tống, do Thẩm Ước (沈約) Tề Thư (齊書) -- Nam Triều, do Tiêu Tử Hiển (蕭子顯) Lương Thư (梁書) -- Nam Triều, do Diêu Sát (姚察) và Diêu Tư Liêm (姚思廉) Trần Thư (陳書) -- Nam Triều, do Diêu Tư Liêm (姚思廉) Nam Sử (南史), do Lý Đại Sư (李大師) khởi xướng, Lý Duyên Thọ (李延壽) hoàn thành Ngụy Thư (魏書) -- Bắc Triều, do Ngụy Thâu (魏收) Chu Thư (周書) -- Bắc Triều, do Lệnh Hồ Đức Phân (令狐德棻) Bắc Tề Thư (北齊書) -- Bắc Triều, do Lý Bách Dược (李百藥) Bắc Sử (北史), do Lý Đại Sư (李大師) khởi xướng, Lý Duyên Thọ (李延壽) hoàn thành Tuỳ Thư (隋書), do Nhan Sư Cổ (顏師古), Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達), Trưởng Tôn Vô Kỵ (長孫無忌) và chủ biên Nguỵ Trưng (魏徵) Cựu Đường Thư (舊唐書), do Lưu Hu (劉昫) đứng tên nhưng hầu như toàn bộ là do Triệu Oánh (趙瑩), Trương Chiêu (張昭), Giả Vĩ (賈緯) và Triệu Hy (趙熙) biên soạn Tân Đường Thư (新唐書), do Âu Dương Tu (歐陽脩) và Tống Kỳ (宋祁) dẫn đầu chủ biên Cựu ngũ đại sử (舊五代史), do Tiết Cư Chính (薛居正) Tân ngũ đại sử (新五代史), do Âu Dương Tu (歐陽修) Tống Sử (宋史), do Thoát Thoát Liêu Sử (遼史), do Thoát Thoát Kim Sử (金史), do Thoát Thoát Nguyên Sử (元史), do Tống Liêm (宋濂) dẫn đầu chủ biên Minh Sử (明史), do Trương Đình Ngọc (張廷玉) dẫn đầu chủ biên Thanh Sử Cảo (清史稿), do Triệu Nhĩ Tốn (趙爾巽) thường được coi là văn tự kinh điển thứ 25 của bộ sử văn Tân Nguyên Sử (新元史), do Kha Thiệu Văn (柯劭忞) đôi khi được coi là văn tự kinh điển thứ 26 của bộ sử văn
- Hoa Dương Quốc Chí (華陽國志), một bản ghi chép lịch sử cổ đại và các câu chuyện kể miền tây nam Trung Quốc, được cho là của Thường Tuyền (常璩).
- Liệt nữ truyện (列女傳), một tuyển tập tiểu sử của những phụ nữ gương mẫu Trung Hoa thời cổ đại, được biên soạn bởi Lưu Hướng.
- Thập lục quốc Xuân Thu (十六國春秋), một bản ghi chép lịch sử của Ngũ Hồ thập lục quốc, được cho là của Thôi Hồng (崔鴻), nay đã bị thất lạc phần lớn và nay không còn nguyên vẹn.
- Thích Danh (釋名), một cuốn từ điển có từ cuối thế kỷ thứ 2, tác giả của cuốn sách chưa được xác định rõ ràng.
- Thế thuyết tân ngữ (世說新語), một tuyển tập các giai thoại và các bức vẽ minh hoạ nhân vật của 600 thi sĩ, nhạc sĩ và hoạ sĩ.
- Tam thập lục kế (三十六計), một quyển sách binh thư.
- Cửu chương toán thuật, một cuốn sách toán Trung Quốc được biên soạn bởi nhiều thế hệ các học giả thời nhà Hán.
- Tứ khố toàn thư, tuyển tập văn học lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa
- Toàn Đường Thi, được biên soạn vào thời nhà Thanh, ra mắt năm 1705.
- Tiếu Lâm Quảng Ký (笑林廣記), một tuyển tập các truyện tiếu lâm thời nhà Thanh.
- Văn Tâm Điêu Long (文心雕龍), một tác phẩm bình luận văn học Trung Hoa cổ đại cùng một số tản văn do Lưu Hiệp (劉勰; 465–522) sáng tác.
- Thuỷ Kinh Chú (水經注), một cuốn sách về hệ thống sông ngòi, thuỷ lợi, được cho là biên soạn bởi nhà địa lý trứ danh Ly Đạo Nguyên (酈道元; 466 hoặc 472 – 527).
- Đường Thái Tông Lý Vệ Công vấn đối (唐太宗李衛公問對), một cuốn sách binh thư được cho là của Lý Tĩnh (李靖; 571 – 649).