✨Điển tịch cổ điển Trung Quốc

Điển tịch cổ điển Trung Quốc

Điển tịch cổ điển Trung Quốc () hoặc đơn giản là Điển tịch (典籍) là thuật ngữ đề cập đến các văn bản Trung Quốc có nguồn gốc từ trước sự kiện thống nhất đế quốc Trung Hoa bởi triều đại nhà Tần năm 221 trước Công Nguyên, cụ thể là Tứ Thư Ngũ Kinh theo truyền thống Lý học mà bản thân chúng là một bản tóm tắt thông thường của Thập tam kinh. Tất cả các văn bản trước đời Tần này đều được viết bằng văn ngôn (Hán văn cổ điển). Cả ba bộ kinh gọi chung là điển tịch (, , jīng, lit. "kinh").

Thuật ngữ điển tịch cổ điển Trung Quốc có khả năng được sử dụng rộng rãi để chỉ các văn bản được viết bằng bạch thoại hoặc có thể được sử dụng theo nghĩa hẹp để chỉ các văn bản được viết bằng chữ Trung Quốc cổ điển thịnh hành thời đó, cho tới tận lúc triều đại cuối cùng của nhà Thanh sụp đổ vào năm 1912. Những văn bản này có thể bao gồm Sử (, tác phẩm lịch sử), Tử (, tác phẩm triết học thuộc các trường phái tư tưởng khác ngoài Nho giáo nhưng cũng bao gồm các tác phẩm về nông nghiệp, y học, toán học, thiên văn học, bói toán, phê bình nghệ thuật, các tác phẩm lẫn lộn khác) và Tập (, tác phẩm văn học) cũng như việc trau dồi Tinh (, Y học Trung Quốc).

Vào thời nhà Minh và nhà Thanh, bộ Tứ Thư Ngũ Kinh là chủ đề của chương trình học bắt buộc của các học giả Nho giáo, những người có nguyện vọng đỗ đạt trong các kỳ thi Khoa Cử để ra làm quan. Bất kỳ cuộc thảo luận chính trị nào cũng đều lấy dẫn chứng từ các nguồn tài liệu này làm căn bản, và không ai có thể trở thành một sĩ đại phu (hoặc trong một số thời kỳ, kể cả là tướng lĩnh quân đội) mà không thuộc nằm lòng các văn thư này. Thông thường, trẻ em khi bắt đầu đi học phải học thuộc lòng các ký tự chữ Hán trong cuốn Tam tự kinh (三字經) và Bách gia tính (百家姓). Sau đó mới học đến các cuốn khác. Giới sĩ phu ưu tú do đó cùng chia sẻ một nền tảng văn hoá và tập hợp các giá trị chung.

Thời nhà Tần

Mất mát các tư liệu vào cuối đời nhà Tần

Theo như Sử ký của Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thuỷ Hoàng, Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Trung Hoa, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên, thừa tướng của ông là Lý Tư đề nghị dẹp bỏ nghị luận trí thức để thống nhất tư tưởng và quan điểm chính trị.

Điều này được cho là đã tàn phá các chuyên luận triết học của nhiều trường phái thời kỳ Bách Gia Chư Tử, với mục tiêu nhằm củng cố triết lý cai trị chính thức của nhà Tần là Pháp gia. Có ba loại sách bị Lý Tư xem là nguy hiểm nhất về mặt chính trị. Đó là thơ ca, lịch sử (đặc biệt là ghi chép lịch sử của các quốc gia khác ngoài Tần), và triết học. Các tuyển tập thơ và ghi chép lịch sử cổ đại có nhiều câu chuyện liên quan đến các nhà cai trị tài đức thời xưa. Lý Tư cho rằng nếu mọi người đọc những văn bản này, khả năng là họ sẽ vọng tưởng về quá khứ và trở nên không hài lòng với hiện tại. Lý do cho việc đối chọi đàn áp các trường phái triết học khác nhau là do chúng ủng hộ các tư tưởng chính trị thường không tương thích với chế độ toàn trị.

Những sử gia hiện đại lại nghi ngờ các chi tiết của câu chuyện, khởi nguyên lần đầu tiên hơn một thế kỷ sau trong cuốn Sử ký Tư Mã Thiên chính thức vào thời nhà Hán. Michael Nylan nhận định rằng, dẫu cho thuộc tính thần thoại của nó, truyền thuyết Đốt sách chôn nho không được xem xét là chặt chẽ. Nylon gợi ý rằng nguyên do các học giả nhà Hán cáo buộc nhà Tần đốt bỏ Ngũ Kinh đạo Khổng một phần là để "phỉ báng" thể chế mà họ đã đánh bại và một phần là do các học giả nhà Hán hiểu sai bản chất của văn tự, vì chỉ sau khi thành lập nhà Hán, Tư Mã Thiên mới gọi Ngũ Kinh là "Nho học". Nylan cũng chỉ ra, nhà Tần đã bổ nhiệm các học giả cổ điển, những chuyên gia về Kinh ThiKinh Thư, điều này có nghĩa là các văn thư ấy có thể đã được miễn trừ khỏi bị diệt bỏ, và cuốn Lễ KýTả Truyện đã không chứa đựng lời lẽ tôn vinh các chế độ phong kiến chiến bại mà Hoàng đế đầu tiên đã lấy làm lý do tiễu bỏ chúng. Nylon gợi ý thêm rằng, câu chuyện có thể dựa trên sự thật là cung điện của nhà Tần đã bị san phẳng vào năm 207 trước Công Nguyên kèm theo việc nhiều văn thư chắc chắn là đã bị thất lạc ở thời điểm đó. Martin Kern bổ sung, văn tự nhà Tần và văn tự đầu nhà Hán thường xuyên trích dẫn các cuốn Kinh, đặc biệt là Kinh Thi và Kinh Thư, mà điều này là hoàn toàn không khả thi nếu như chúng đã bị đốt bỏ như được ghi chép lại.

Thời Tây Hán

Ngũ Kinh

Ngũ Kinh () là bộ năm cuốn sách Trung Hoa thời tiền Tần đã trở thành một phần của chương trình giáo huấn được triều đình phù trợ dưới triều đại Tây Hán, triều đại đã lấy Nho học đạo Khổng làm hệ tư tưởng chính quy. Chính trong thời kỳ này mà lần đầu tiên bộ kinh thư được gọi chung thành một tuyển tập là Ngũ Kinh (Năm cuốn sách Kinh điển). Một số văn bản đã từng nổi bật trước đó vào thời Chiến Quốc. Mạnh Tử, một trong những học giả Nho giáo hàng đầu, xem bộ kinh Xuân Thu cũng không kém phần quan trọng so với các biên niên sử bán huyền thoại của các thời đại trước đó.

; Kinh Thi (經詩) hoặc Thi Kinh (詩經) : Một tuyển tập gồm 305 bài thơ, được chia làm 160 bài hát dân ca, 105 bài hát lễ tế để hát trong các buổi lễ cung đình, 40 bài hát thần linh ca và điếu ca để hát trong các buổi tế anh hùng và vong linh tổ tiên của hoàng tộc. ; Kinh Thư (書經; "thư kinh") hay còn gọi là Thượng Thư (尚書) : Một tuyển tập những tư liệu và phát ngôn được cho là của các nhà cai trị và quan lại thời kỳ đầu nhà Chu và trước đó. Đây có thể là văn bản ký thuật cổ xưa nhất Trung Hoa, khả năng là xuất phát từ niên đại thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Nó bao gồm các trích dẫn văn xuôi Trung Hoa đầu tiên. ; Lễ Ký (禮記) hay còn gọi là Lễ Kinh (禮經) : Mô tả các nghi thức cổ xưa, các hình thức xã hội và nghi lễ cung đình. Phiên bản được nghiên cứu ngày nay là phiên bản được làm lại bởi các học giả thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên chứ không phải văn bản gốc, được cho là do chính Khổng Tử hiệu đính. ; Kinh Dịch, tức Dị Kinh (易經) : Cuốn sách chứa đựng một hệ thống bói toán tử vi tương đương với phong thuỷ Geomancy của phương Tây hoặc hệ thống Ifá của Tây Phi. Nó vẫn được sử dụng rộng rãi trong văn hoá phương Tây và Đông Á hiện đại. ; Kinh Xuân Thu (春秋) : Ghi ghép lịch sử của nước Lỗ, quốc gia bản địa của Khổng Tử, 722–481 trước Công Nguyên.

Cho tới tận thời Tây Hán, các tác giả thường sẽ liệt kê các sách Kinh theo thứ tự Kinh Thi - Kinh Thư - Lễ Ký - Kinh Dịch - Xuân Thu. Tuy nhiên, kể từ thời Đông Hán, thứ tự mặc định lại chuyển thành Kinh Dịch - Kinh Thư - Kinh Thi - Lễ Ký - Xuân Thu.

Thư viện triều đình nhà Hán

nhỏ|Vào thời [[nhà Hán, Lưu Hướng đã cho xuất bản văn thư cho nhiều danh tác cổ điển của Trung Hoa như Lễ Ký và Liệt nữ truyện]] Năm 26 trước Công Nguyên, theo chiếu chỉ của Hoàng đế, Lưu Hướng (77–6 trước Công Nguyên) đã biên soạn thư mục đầu tiên của thư viện triều đình, Biệt Lục Bielu), và là người biên soạn đầu tiên của cuốn Sơn hải kinh (山海經), bộ này sau đó được hoàn thành bởi con trai của ông. Họ Lưu cũng đồng thời hiệu đính nhiều tuyển tập các câu chuyện và tiểu sử, ví dụ như bộ Liệt nữ truyện (列女傳). Một thời gian dài, ông còn bị hiểu nhầm là đã đồng biên soạn bộ Liệt tiên truyện (列仙傳), một tuyển tập các bài thánh tích và văn tế Nho giáo. Lưu Hướng cũng là một nhà thơ - ông được cho là đã viết Cửu Thán (九歎), văn bản có trong tuyển tập Sở Từ (楚辭).

Các tác phẩm do Lưu Hướng hiệu đính và biên soạn bao gồm:

Công việc được tiếp tục bởi người con trai của ông, Lưu Hâm (học giả), người đã hoàn thành nhiệm vụ sau khi cha đã tạ thế.

Thời nhà Tống

Tứ Thư

nhỏ|[[Zhu Xi|Chu Hy (1130-1200), người đã biên soạn danh sách bốn quyển dưới triều đại nhà Tống.]] Tứ Thư () là những văn bản cổ điển của Trung Quốc minh họa hệ thống các giá trị và niềm tin cốt lõi trong Nho giáo. Chúng đã được Chu Hy (朱熹; 1130 – 1200) chọn lựa dưới triều đại nhà Tống nhằm giới thiệu chung về tư tưởng Nho giáo. Thời nhà Minh và nhà Thanh, chúng trở thành tri thức cốt lõi của chương trình giảng dạy chính thức cho các kỳ thi Khoa Cử. Bộ Tứ Thư gồm có:

; Đại Học (大學) : Ban đầu chỉ là một chương trong sách Lễ Ký. Nó bao gồm một bài viết ngắn trọng yếu được cho là của Khổng Tử cùng chín chương bình luận của Tăng Tử, một trong những đệ tử của Khổng Tử. Tầm quan trọng của cuốn Đại Học được minh họa qua lời nói đầu của Tăng Tử rằng đây chính là cửa ngõ của việc học. Nó có ý nghĩa quan trọng bởi nhiều chủ đề triết học và tư duy chính trị Trung Quốc mà nó thể hiện, và do đó có ảnh hưởng cực kỳ sâu rộng lên hệ tư tưởng Trung Quốc cổ điển và hiện đại. Chính quan, tu thân và khám nghiệm đều có liên hệ với nhau.

; Trung Dung (中庸) : Một chương khác trong sách Lễ Ký, được cho là của Khổng Cấp (孔伋; 483 TCN – 402 TCN), cháu trai Khổng Tử. Mục đích của quyển sách nhỏ này, gồm 33 chương, là chứng minh sự hữu hiệu của đường lối vàng ngọc nhằm đạt được đức hạnh hoàn hảo. Nó tập trung vào đường lối của Đạo (), được định sẵn bởi luật trời, không chỉ riêng cho người cai trị mà còn cho tất cả mọi người. Tuân theo luật trời qua sự hiếu học và huấn thị sẽ tự động đạt đến cảnh giới đức hạnh Khổng giáo hay còn gọi là Đức () trong Hán tự. Vì Luật Trời đã định sẵn con đường thành đạo cho nên chỉ cần biết đâu là chính đạo thì việc tiếp bước các bậc thánh hiền ngày xưa cũng không khó lắm.

; Luận Ngữ (論語) : Một tuyển tập các phát ngôn của Khổng Tử và các đồ đệ của ông, cũng như những cuộc thảo luận mà họ đã có với nhau. Kể từ thời Khổng Tử, Luận Ngữ đã ảnh hưởng sâu sắc đến triết học và các giá trị đạo đức của Trung Quốc và sau này là các nước Đông Á khác. Các kỳ thi Khoa Cử, bắt đầu từ triều đại nhà Tùy và sau cùng bị bãi bỏ với sự thành lập của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhấn mạnh nghiên cứu Nho học và kỳ vọng các thí sinh trích dẫn và áp dụng lời của Khổng Tử trong các bài luận của mình.

; Mạnh Tử (孟子) : Một tập hợp các cuộc đối thoại giữa học giả Mạnh Tử và các vị quân vương thời bấy giờ. Trái ngược với những lời nói của Khổng Tử, vốn ngắn gọn và súc tích, cuốn Mạnh Tử bao gồm các đoạn hội thoại dài cùng việc sử dụng nhiều văn xuôi.

Thời nhà Minh

Thập Tam Kinh (十三經)

Chương trình giảng dạy chính thức của hệ thống Khoa Cử từ thời nhà Tống trở đi là Thập Tam Kinh. Tổng cộng, những tác phẩm này chứa tổng cộng hơn 600.000 ký tự phải học nằm lòng để vượt qua kỳ thi. Hơn nữa, những tác phẩm này đi kèm với bình luận và chú thích mở rộng, chứa khoảng 300 triệu ký tự theo một số ước tính.

  • Kinh Dịch (易經 Yìjīng)
  • Thư Kinh (書經 Shūjīng)
  • Kinh Thi (詩經 Shījīng)
  • Tam Lễ (三禮 Sānlǐ) Chu Lễ (周禮 Zhōulǐ) Nghi Lễ (儀禮 Yílǐ) Lễ Ký (禮記 Lǐjì) ** Chương Đại Học (大學 Dà Xué) Chương Trung Dung (中庸 Zhōng Yōng)
  • Tam Luận về Kinh Xuân Thu Tả Truyện (左傳 Zuǒzhuàn) Công Dương Truyện (公羊傳 Gōngyáng Zhuàn) ** Cốc Lương Truyện (穀梁傳 Gǔliáng Zhuàn)
  • Luận Ngữ (論語 Lúnyǔ)
  • Hiếu Kinh (孝經 Xiàojīng)
  • Nhĩ Nhã (爾雅 Ěryǎ)
  • Mạnh Tử (孟子 Mèngzǐ)

Danh sách các Văn tự Cổ điển

Trước năm 221 trước Công Nguyên

Thông thường, rất khó hoặc gần như là không thể định niên chính xác các tác phẩm, văn tự thời tiền Tần hơn niên đại "Tiền Tần" của chúng, một giai đoạn trải dài suốt 1000 năm. Thông tin thời Trung Quốc cổ đại thường được truyền miệng và được truyền lại từ nhiều thế hệ trước nên hiếm khi được viết ra. Do đó, bố cục của các văn bản càng cổ đại thì càng khó mà theo trình tự thời gian như được sắp xếp và trình bày bởi các "tác giả" được cho là của chúng.

Vì thế, danh sách dưới đây được sắp xếp theo thứ tự tìm thấy trong Tứ khố toàn thư, thư viện cung đình của triều đại nhà Thanh. Bộ toàn thư này phân loại tất cả các tác phẩm thành 4 nhánh cấp cao nhất: Kinh điển Nho học và văn thư thứ cấp của chúng; Lịch sử; Triết học; Thơ ca. Ngoài ra còn có các danh mục phụ trong mỗi nhánh, nhưng do số lượng tác phẩm tiền Tần trong các nhánh Kinh điển, Lịch sử và Thơ ca ít nên các danh mục phụ chỉ được sao chép lại cho nhánh Triết học.

Nhánh kinh điển

Nhánh sử học

Nhánh triết học

Thơ ca

Sau năm 206 trước Công Nguyên

  • "Nhị thập tứ sử", một bộ sưu tập 24 bộ sử thư chính thống của Trung Quốc do các triều đại khác nhau biên soạn: Sử Ký (史記), do Tư Mã Đàm (司馬談) và Tư Mã Thiên (司馬遷) Hán Thư (漢書), do Ban Bưu (班彪), Ban Cố (班固) và Ban Chiêu (班昭) Hậu Hán Thư (後漢書), do Phạm Diệp (范曄) dẫn đầu chủ biên Tam Quốc Chí (三國志), do Trần Thọ (陳壽) Tấn Thư (晉書) do Phòng Huyền Linh (房玄齡) dẫn đầu chủ biên Tống Thư (宋書) -- Các triều Nam Tống, do Thẩm Ước (沈約) Tề Thư (齊書) -- Nam Triều, do Tiêu Tử Hiển (蕭子顯) Lương Thư (梁書) -- Nam Triều, do Diêu Sát (姚察) và Diêu Tư Liêm (姚思廉) Trần Thư (陳書) -- Nam Triều, do Diêu Tư Liêm (姚思廉) Nam Sử (南史), do Lý Đại Sư (李大師) khởi xướng, Lý Duyên Thọ (李延壽) hoàn thành Ngụy Thư (魏書) -- Bắc Triều, do Ngụy Thâu (魏收) Chu Thư (周書) -- Bắc Triều, do Lệnh Hồ Đức Phân (令狐德棻) Bắc Tề Thư (北齊書) -- Bắc Triều, do Lý Bách Dược (李百藥) Bắc Sử (北史), do Lý Đại Sư (李大師) khởi xướng, Lý Duyên Thọ (李延壽) hoàn thành Tuỳ Thư (隋書), do Nhan Sư Cổ (顏師古), Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達), Trưởng Tôn Vô Kỵ (長孫無忌) và chủ biên Nguỵ Trưng (魏徵) Cựu Đường Thư (舊唐書), do Lưu Hu (劉昫) đứng tên nhưng hầu như toàn bộ là do Triệu Oánh (趙瑩), Trương Chiêu (張昭), Giả Vĩ (賈緯) và Triệu Hy (趙熙) biên soạn Tân Đường Thư (新唐書), do Âu Dương Tu (歐陽脩) và Tống Kỳ (宋祁) dẫn đầu chủ biên Cựu ngũ đại sử (舊五代史), do Tiết Cư Chính (薛居正) Tân ngũ đại sử (新五代史), do Âu Dương Tu (歐陽修) Tống Sử (宋史), do Thoát Thoát Liêu Sử (遼史), do Thoát Thoát Kim Sử (金史), do Thoát Thoát Nguyên Sử (元史), do Tống Liêm (宋濂) dẫn đầu chủ biên Minh Sử (明史), do Trương Đình Ngọc (張廷玉) dẫn đầu chủ biên Thanh Sử Cảo (清史稿), do Triệu Nhĩ Tốn (趙爾巽) thường được coi là văn tự kinh điển thứ 25 của bộ sử văn Tân Nguyên Sử (新元史), do Kha Thiệu Văn (柯劭忞) đôi khi được coi là văn tự kinh điển thứ 26 của bộ sử văn
  • Hoa Dương Quốc Chí (華陽國志), một bản ghi chép lịch sử cổ đại và các câu chuyện kể miền tây nam Trung Quốc, được cho là của Thường Tuyền (常璩).
  • Liệt nữ truyện (列女傳), một tuyển tập tiểu sử của những phụ nữ gương mẫu Trung Hoa thời cổ đại, được biên soạn bởi Lưu Hướng.
  • Thập lục quốc Xuân Thu (十六國春秋), một bản ghi chép lịch sử của Ngũ Hồ thập lục quốc, được cho là của Thôi Hồng (崔鴻), nay đã bị thất lạc phần lớn và nay không còn nguyên vẹn.
  • Thích Danh (釋名), một cuốn từ điển có từ cuối thế kỷ thứ 2, tác giả của cuốn sách chưa được xác định rõ ràng.
  • Thế thuyết tân ngữ (世說新語), một tuyển tập các giai thoại và các bức vẽ minh hoạ nhân vật của 600 thi sĩ, nhạc sĩ và hoạ sĩ.
  • Tam thập lục kế (三十六計), một quyển sách binh thư.
  • Cửu chương toán thuật, một cuốn sách toán Trung Quốc được biên soạn bởi nhiều thế hệ các học giả thời nhà Hán.
  • Tứ khố toàn thư, tuyển tập văn học lớn nhất trong lịch sử Trung Hoa
  • Toàn Đường Thi, được biên soạn vào thời nhà Thanh, ra mắt năm 1705.
  • Tiếu Lâm Quảng Ký (笑林廣記), một tuyển tập các truyện tiếu lâm thời nhà Thanh.
  • Văn Tâm Điêu Long (文心雕龍), một tác phẩm bình luận văn học Trung Hoa cổ đại cùng một số tản văn do Lưu Hiệp (劉勰; 465–522) sáng tác.
  • Thuỷ Kinh Chú (水經注), một cuốn sách về hệ thống sông ngòi, thuỷ lợi, được cho là biên soạn bởi nhà địa lý trứ danh Ly Đạo Nguyên (酈道元; 466 hoặc 472 – 527).
  • Đường Thái Tông Lý Vệ Công vấn đối (唐太宗李衛公問對), một cuốn sách binh thư được cho là của Lý Tĩnh (李靖; 571 – 649).
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
**_Phong thần diễn nghĩa_** (), cũng gọi là **_Phong thần bảng_** (封神榜), là một tiểu thuyết trường thiên thời Minh và là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của thể loại thần ma.
**Điển tịch cổ điển Trung Quốc** () hoặc đơn giản là **Điển tịch** (典籍) là thuật ngữ đề cập đến các văn bản Trung Quốc có nguồn gốc từ trước sự kiện thống nhất đế
**Điện Biên** là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Điện Biên có diện tích: 9.540 km², xếp thứ 14; dân
**Điền** () là một nhà nước được người Điền lập ra. Họ là những người sống quanh hồ Điền Trì ở khu vực miền bắc Vân Nam, Trung Quốc từ khoảng giữa thời kỳ Chiến
**Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Nội Mông Cổ** (Tiếng Trung Quốc: **内蒙古自治区人民政府主席**, Bính âm Hán ngữ: _Nèi Méng Gǔ Zìzhìqū Rénmín Zhèngfǔ Zhǔxí_, _Nội Mông Cổ tự trị Khu Nhân dân
**Đoàn Nghệ thuật Thần Vận** là một đoàn biểu diễn nghệ thuật và giải trí được thành lập tại thành phố New York và có trụ sở tại Cuddebackville, Quận Cam, New York, ở Thung
nhỏ| So sánh kích thước (từ trên xuống dưới) của [[Wii,Nintendo GameCube, Nintendo 64, SNES Bắc Mỹ và NES(1983)]] Công ty điện tử đa quốc gia Nhật Bản **Nintendo** đã phát triển bảy **máy chơi
Vị trí vùng Duyên hải Nam Trung Bộ trên bản đồ Việt Nam **Nam Trung Bộ** là vùng địa phương của phía nam thuộc Trung Bộ Việt Nam, với thành phố trọng điểm và lớn
**Đế quốc thực dân Pháp** bao gồm các thuộc địa hải ngoại, xứ bảo hộ và lãnh thổ ủy thác nằm dưới sự cai trị của Pháp từ thế kỷ 16 trở đi. Các nhà
**Dương Dương** (, tiếng Latinh: Yang Yang, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1991) là một nam diễn viên Trung Quốc. Anh được khán giả biết đến với vai diễn Tào Thực trong phim truyền
phải|nhỏ|250x250px|Hình ảnh Điện Thái Hòa trong tuyết thumb|Tấm biển trên gác mái của điện Thái Hòa|thế=**Điện Thái Hòa** (chữ Hán: 太和殿; bính âm: _Tài Hé Diàn_, Hán Việt: Thái Hòa điện; Mãn Châu: _Amba hūwaliyambure
**Khang Hi tự điển** (Hán văn giản thể: 康熙字典; Hán văn phồn thể: 康熙字典; bính âm: Kangxi zidian) là một bộ tự điển chữ Hán có tầm ảnh hưởng lớn, do một nhóm học giả
**Vườn quốc gia Hoàng Liên** là một vườn quốc gia Việt Nam được thành lập năm 2002, nằm ở độ cao từ 1.000-3000m so với mặt biển trên dãy Hoàng Liên Sơn thuộc địa bàn
**Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam** là cơ quan tham mưu, giúp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo
**Hai Bà Trưng** (? – 5 tháng 3 năm 43) là tên chỉ chung hai chị em Trưng Trắc (徵側) và Trưng Nhị (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân
**Vườn quốc gia Vũ Quang** (còn gọi với tên: **Vườn quốc gia Vụ Quang**) là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi có nhiều loài sinh vật đặc hữu chỉ có ở Việt
phải|nhỏ|Cung điện Buckingham (năm 2007) Quang cảnh Cung điện Buckingham trong Lễ kỷ niệm Sinh nhật lần thứ 90 của Nữ hoàng (2016) **Điện Buckingham** là một dinh thự của Vua (hoặc Nữ vương) Vương
**Lưu Đào** (sinh ngày 12 tháng 7 năm 1978) là một nữ diễn viên người Trung Quốc, thường được biết đến với danh xưng là "Mỹ nhân phim cổ trang". ## Tiểu sử Cha cô
## Danh sách theo niên đại ### Tây chu xuân thu * Khương Tử Nha (tk 12 tcn) * Chu Công (tk 12 tcn) * Khổng Tử (551 - 479 tcn) ### Thời Chiến Quốc,
thumb|Huy hiệu của Công quốc Cornwall **Công quốc Cornwall** (tiếng Cornwall: _Duketh Kernow_) là một trong hai công quốc hoàng gia ở Anh, công quốc còn lại là Lancaster. Con trai cả của đương kim
**Vườn quốc gia Phú Quốc** là một vườn quốc gia của Việt Nam nằm tại đảo Phú Quốc, tỉnh An Giang Vườn quốc gia Phú Quốc được thành lập theo Quyết định số 91/2001/QĐ-TTg ngày
Cung điện Louvre với [[Kim tự tháp kính Louvre|Kim tự tháp bằng kính]] Toàn cảnh Louvre từ trên không **Cung điện Louvre** (tiếng Pháp: Palais du Louvre) là một cung điện cũ của hoàng gia
nhỏ **Tả truyện** (tiếng Trung Quốc: 左傳; bính âm: _Zuo Zhuan_; Wade-Giles: _Tso Chuan_), **Xuân Thu Tả thị truyện** (), hay **Tả thị Xuân Thu** (), là tác phẩm sớm nhất của Trung Quốc viết
**Lữ thị Xuân Thu** () còn gọi là **_Lữ Lãm_** (呂覽) là bộ sách do Lữ Bất Vi - thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc sai các môn khách soạn ra những điều mình
**Hãn quốc Kim Trướng** là một hãn quốc Hồi giáo gốc Mông Cổ, sau này đã Đột Quyết hoá, được thành lập ở vùng phía tây Đế quốc Mông Cổ sau chiến dịch xâm lược
thumb|right|350 px|Bản đồ chủ quyền các quốc gia tại Trung Mỹ và Caribbean từ năm 1700 đến nay **Lịch sử Trung Mỹ** (bao gồm cả vùng Caribbean) là lịch sử của khu vực Trung Mỹ
**Vườn quốc gia Chư Yang Sin** là một khu rừng đặc dụng của Việt Nam. Được thành lập theo quyết định số 92/2002/QĐ-TTg ngày 12 tháng 7 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ Cộng
**Vườn quốc gia Pù Mát** là một khu rừng đặc dụng ở phía tây tỉnh Nghệ An. Tiếng Thái, Pù Mát có nghĩa là những con dốc cao. Được thành lập theo quyết định số
Bản vẽ một cục long diên hương năm 1753. **Long diên hương** là một chất sáp màu xám được tạo ra trong hệ tiêu hóa của cá nhà táng. Trước đây, long diên hương được
nhỏ|Vị trí tại Trung Quốc **Địa khu Hòa Điền** (, tiếng Uyghur: خوتەن ۋىلايىتى) là một địa khu thuộc khu tự trị Uyghur Tân Cương, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Địa khu Hòa Điền
**Đào tạo hợp tác quốc tế** là hình thức liên kết đào tạo giữa nhiều nước và vùng lãnh thổ. Đào tạo hợp tác quốc tế phối hợp hoạt động giáo dục đào tạo để
**Công quốc Anhalt** () là một công quốc lịch sử của Đức. Lãnh thổ công quốc này nằm giữa dãy núi Harz ở phía tây và sông Elbe và xa hơn nữa là tới Fläming
**Vườn quốc gia Saylyugemsky** () nằm trên khu vực núi giao cắt chữ "X" biên giới của bốn quốc gia Nga, Kazakhstan, Mông Cổ và Trung Quốc, thuộc dãy núi Altai của Trung Á. Do
**Lừa hoang Mông Cổ** (danh pháp khoa học: **_Equus hemionus hemionus_**), còn gọi là **khulan**, là một phân loài của lừa rừng Trung Á. Nó có thể là một loài cùng với kulan Gobi hay
phải|nhỏ|Bản đồ Trung Mỹ **Trung Mỹ** (Tiếng Anh: _Central America_) về mặt địa lý là vùng nằm giữa châu Mỹ trên trục bắc nam. Trung Mỹ có khi được xem là một vùng riêng biệt
**Vườn quốc gia Mercantour** (_Mễ Cần Thơ_, ) là một vườn quốc gia của Pháp. Ngay từ khi được thành lập năm 1979, vườn quốc gia này đã chứng tỏ rất được ưa chuộng. Hàng
**Vườn quốc gia Ruvubu** (tiếng Pháp: _Parc National de la Ruvubu_) là một vườn quốc gia nằm tại các tỉnh Karuzi, Muyinga, Cankuzo và Ruyigi của Burundi. Được thành lập vào năm 1980 với diện
**Từ điện trở dị hướng** (tiếng Anh: _Anisotropic magnetoresistance_, viết tắt là **AMR**) là một hiệu ứng từ điện trở mà ở đó tỉ số từ điện trở (sự thay đổi của điện trở suất
**Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử** là khu di tích thuộc địa bàn thành phố Uông Bí và thành phố Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Khu di tích có diện tích
**Xí nghiệp Liên hợp Z751** trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng Việt Nam là một doanh nghiệp Quân đội có nhiệm vụ sửa chữa, sản xuất Ô tô, Cơ khí, Tăng thiết
nhỏ|Vị trí tại Chương Hóa **Điền Vĩ** () là một hương (xã) của huyện Chương Hóa, tỉnh Đài Loan, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Hương có "hoa viên công lộ" và phát triển về
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên Cửa Đông vào [[đền Vua Đinh Tiên Hoàng]] **Quần thể di tích Cố đô Hoa Lư** là hệ thống các di tích về kinh đô Hoa
**Đảng Cộng sản Trung Quốc** (; Hán-Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng), một số văn kiện tiếng Việt còn gọi là **Đảng Cộng sản Tàu**, là đảng chính trị thành lập và điều hành Cộng
**Diêm Tích Sơn** () (8 tháng 10, 1883 – 22 tháng 7, 1960) là một quân phiệt Trung Hoa phục vụ trong Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc. Diêm Tích Sơn kiểm soát tỉnh Sơn
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm
**Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XX Đảng Cộng sản Trung Quốc** (tiếng Trung giản thể: 中国共产党第二十次全国代表大会, bính âm Hán ngữ: _Zhōngguó gòngchǎndǎng dì èrshí cì quánguó dàibiǎo dàhuì_) viết tắt là **Đại
**Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIV** diễn ra vào ngày 22 tháng 5 năm 2016 thông qua biểu quyết trước đó của Quốc hội vào ngày 24 tháng 11 năm 2015. Qua đó,
**Lũ lụt miền Trung năm 2020** (hay còn được gọi là **Lũ chồng lũ**, **Lũ lịch sử**) là 1 đợt bão, lũ lụt khắp miền Trung Việt Nam, bắt đầu từ đêm ngày 6 tháng
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích