✨Điện Biên
Điện Biên là tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ của Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Điện Biên có diện tích: 9.540 km², xếp thứ 14; dân số: 673.091 người, xếp thứ 32; GRDP 2024: 31.663.387 triệu VNĐ, xếp thứ 32; thu ngân sách 2024: 1.574.989 triệu VNĐ, xếp thứ 34; thu nhập bình quân: 28,20 triệu VNĐ/năm, xếp thứ 34.
Tên gọi
Tên gọi Điện Biên là phiên âm Hán Việt của "奠邊", do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ châu Ninh Biên. "Điện" nghĩa là vững chãi, "Biên" nghĩa là vùng biên giới, biên ải, "Điện Biên" tức là miền biên cương vững chãi. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên Phủ) thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu. Tên gọi Điện Biên hay Điện Biên Phủ xuất hiện từ đó.
Địa lý
Tỉnh Điện Biên nằm ở rìa phía Tây khu vực Tây Bắc Việt Nam. Tỉnh có tọa độ địa lý từ 20°54' đến 22°33' vĩ độ Bắc và từ 102°10' đến 103°36' kinh độ Đông. Tỉnh nằm cách thủ đô Hà Nội 504 km về phía Tây, có vị trí địa lý: Phía đông và giáp tỉnh Sơn La Phía tây giáp tỉnh Phôngsali, Lào Phía nam giáp tỉnh Luang Prabang, Lào Phía bắc giáp tỉnh Lai Châu và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Điện Biên là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2 quốc gia Lào và Trung Quốc dài hơn 400 km với đường biên giới tiếp giáp với Lào là 360 km và đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc là 40,86 km. rộng hơn 150 km², là cánh đồng lớn và nổi tiếng nhất của tỉnh Điện Biên và cả khu vực Tây Bắc. Trong đó đứt gãy Lai Châu – Điện Biên hoạt động tách giãn mạnh, tạo ra sụt lún dạng địa hào và nâng mạnh ở hai bờ đông tây, mật độ dập vỡ vỏ Trái Đất cũng tăng cực đại. Những yếu tố trên đã tạo ra các khu vực trượt lở và lũ bùn đá điển hình, là nguyên nhân gây ra các hiện tượng như lũ lụt, động đất. Các tháng có giờ nắng thấp là tháng 6 và tháng 7; các tháng có giờ nắng cao thường là các tháng 3, 4, 8 và tháng 9.
Nhiệt độ thấp kỷ lục ở Điện Biên là -4.2 °C vào 6 giờ sáng ngày 25 tháng 1 năm 2016 (trạm Pha Đin)
Thủy văn
Nguồn nước ở Điện Biên rất phong phú với ba hệ thống sông lớn đi qua, bao gồm hệ thống sông Hồng (sông Đà), sông Mã và sông Mê Công. Sông ngòi trong tỉnh thường có độ dốc lớn, nhiều thác ghềnh – đặc biệt là các sông thuộc hệ thống sông Đà và sông Nậm Rốm – nên có tiềm năng phát triển thủy điện. Chất lượng nước tương đối cao, ít bị ô nhiễm.
| valign="top" width="25%" style="background: #f9f9f9;" |
| valign="top" width="25%" style="background: #f9f9f9;" |
| valign="top" width="25%" style="background: #f9f9f9;" |
|}
Lịch sử
Thời thượng cổ
Vào thế kỷ thứ 6–7 ở vùng Vân Nam (Trung Quốc), quốc gia Nam Chiếu ra đời. Sau đó, những cuộc tranh chấp giữa Nam Chiếu và các tộc người khác thường xuyên diễn ra, khiến cho cả vùng Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương bất ổn định. Thời kỳ này đất Mường Thanh cũng trải qua nhiều biến động lớn.
Ngày 14 tháng 1 năm 2002, thành lập huyện Mường Nhé trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Mường Tè và Mường Lay.
Ngày 26 tháng 9 năm 2003, thành lập thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Điện Biên Phủ.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra nghị quyết chia tỉnh Lai Châu thành hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên. Tỉnh Điện Biên chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2004.
Ngày 2 tháng 3 năm 2005, đổi tên thị xã Lai Châu thành thị xã Mường Lay, đổi tên huyện Mường Lay thành huyện Mường Chà.
Ngày 14 tháng 11 năm 2006, thành lập huyện Mường Ảng trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Tuần Giáo.
Ngày 25 tháng 8 năm 2012, thành lập huyện Nậm Pồ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của các huyện Mường Nhé và Mường Chà.
Tỉnh Điện Biên có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Kinh tế Điện Biên thuộc nhóm trung bình. Điện Biên là một trong những tỉnh gặp khó khăn, do địa hình đồi núi chia cắt nên nông nghiệp không phải là thế mạnh của Điện Biên. Hiện nay tỉnh đang chú trọng vào công nghiệp và du lịch. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2020, tỉnh Điện Biên xếp ở vị trí thứ 46 trên 63 tỉnh thành. Năm 2018, Điện Biên xếp thứ 60 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) với 15.750 tỉ đồng (0,684 tỉ USD), xếp thứ 61 về GRDP bình quân đầu người với 27,31 triệu đồng (1.186 USD), đứng thứ 49 về tốc độ tăng trưởng GRDP với 7,15%.
Dự ước tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh GRDP theo giá so sánh năm 2016 đạt 9223,2 tỷ đồng. Trong đó: khu vực nông – lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,56%; công nghiệp – xây dựng tăng 6,07%; dịch vụ tăng 8,64%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng xác định, trong đó: khu vực nông – lâm nghiệp và thủy sản chiếm 23,77%, giảm 1,08%; công nghiệp – xây dựng chiếm 25,29%, tăng 0,03%; dịch vụ chiếm 48,48%, tăng 1,04% so với năm 2015. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 22,31 triệu đồng/người/năm, tăng 7,87% so với năm 2015.
Nông nghiệp
thumb|Cánh đồng ở Điện Biên Ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa chính là điều kiện thuận lợi để nông nghiệp ở Điện Biên phát triển. Tuy nhiên, các vụ rét đậm, rét hại vào mùa đông lại cản trở sự phát triển của cây trồng và vật nuôi. Điện Biên có 9 trang trại: 5 trang trại trồng trọt, 2 trang trại chăn nuôi, 1 trang trại nuôi trồng thủy sản và 1 trang trại khác. Tổng sản lượng lương thực của tỉnh Điện Biên ước đạt 253622 tấn
Diện tích gieo cấy lúa năm 2016 đạt 500,98 km², tăng 1,32%; năng suất bình quân đạt 35 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha; sản lượng ước đạt 175119 tấn, tăng 0,17% so với năm 2015. Diện tích gieo trồng ngô ước đạt 29.977 ha, tăng 0,8%; năng suất bình quân ước đạt 26,19 tạ/ha; sản lượng đạt 78503,44 tấn, tăng 3,03% so với năm 2015. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số của Điện Biên từ năm 2009 đến năm 2019 là 2 ‰. Năm 2019, Điện Biên có 134.273 hộ gia đình với 24.646 hộ ở thành thị và 109.627 hộ ở nông thôn. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 30%.
Theo cuộc điều tra dân số năm 2019, tỉnh Điện Biên có 42 dân tộc sinh sống bao gồm: Thái, Mông, Kinh, Dao, Khơ Mú, Hà Nhì, Giáy, La Hủ, Lự, Hoa, Kháng, Mảng, Tày, Nùng, Mường,... Trong đó, dân tộc Mông là dân tộc có dân số đông nhất với 228.279 người, chiếm 38,1% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Thái xếp thứ hai với 213.714 người, chiếm 35,6% dân số toàn tỉnh. Dân tộc Kinh có dân số đông thứ ba với 104.061 người, chiếm 17,3% dân số tỉnh.
Y tế
Các hoạt động y tế, chương trình mục tiêu Y tế được duy trì và triển khai có hiệu quả theo kế hoạch, chất lượng công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế của tỉnh Điện Biên từng bước được nâng lên. Tình hình dịch bệnh ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Ước cả năm tổng số lượt khám bệnh ước đạt trên 1.000.000 lượt người, tổng số bệnh nhân điều trị nội trú 103.800 lượt và trên 6500 bệnh nhân điều trị ngoại trú, Công suất sử dụng giường bệnh đạt 112%. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên. Phương pháp dạy học tiếp tục được đổi mới theo hướng tích cực hóa, phát huy khả năng sáng tạo, hứng thú học tập, tạo điều kiện để mọi học sinh bộc lộ khả năng và năng lực của bản thân. Tỷ lệ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn tăng nhanh.
Tôn giáo và tín ngưỡng
Theo số liệu năm 2019 của Tổng cục Thống kê, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau với 60.668 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 57.920 người, tiếp theo là Công giáo có 2.672 người, Phật giáo có 73 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương. Tính đến năm 2019, Điện Biên là một trong những địa phương có số dân theo đạo Công giáo thưa nhất miền Bắc Việt Nam với 2.672 tín hữu, chiếm 0,4% dân số toàn tỉnh và cũng là địa phương có số dân theo đạo Tin Lành đông nhất miền Bắc Việt Nam với hơn 50.000 tín hữu. Số dân còn lại đa số thì không theo tôn giáo nào cả.
Du lịch
ở Thành phố Điện Biên Phủ
(người phụ nữ Kinh bên trái
bên phải là người phụ nữ Thái)
Điện Biên là tỉnh giàu tiềm năng du lịch, đặc biệt là về lĩnh vực văn hóa – lịch sử. Nổi bật nhất là hệ thống di tích lịch sử gắn liền với chiến dịch Điện Biên Phủ gồm: Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ (Mường Phăng); các cứ điểm Him Lam, Bản Kéo, Độc Lập; các đồi A1, C1, E1 và khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của Pháp (hầm Đờ-cát Tơ-ri).
Bên cạnh đó, tỉnh cũng có các công trình kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được khánh thành vào ngày 30 tháng 4 năm 2004 tại đồi D1 nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ được khánh thành vào ngày 5 tháng 5 năm 2014 tại thành phố Điện Biên Phủ, là công trình trọng điểm chào mừng kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.
Ngoài ra, Điện Biên còn có rất nhiều các hang động, nguồn nước khoáng và hồ nước tạo thành nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên phong phú, như: Rừng nguyên sinh Mường Nhé; các hang động tại Pa Thơm (huyện Điện Biên), Thẩm Púa (Tuần Giáo); các suối khoáng nóng Hua Pe, U Va; các hồ Pá Khoang, Pe Luông...
Văn hóa
Ẩm thực
Điện Biên có nền ẩm thực ít nhiều chịu ảnh hưởng của ẩm thực vùng Tây Bắc. Ngoài các món ăn phổ biến như phở, bánh cuốn, bún chả,...; Điện Biên cũng có không ít các món ăn đặc sản phong phú và đa dạng.
Gạo Điện Biên gồm hai loại cơ bản là IR64 (gạo tám Điện Biên) và Bắc thơm số 7 (gạo tám thơm Điện Biên) với hàng chục nghìn tấn gạo được sản xuất mỗi năm trên cánh đồng Mường Thanh. Gạo được chế biến và đóng gói tại tỉnh Điện Biên. Gạo tám Điện Biên có hạt nhỏ, căng bóng, màu đục; cơm dẻo như cơm nếp, thơm thoang thoảng, khi nhai có vị đậm. Cơm lam, vốn là món ăn để mang đi nương hay đi rừng, được nấu bằng ống tre, với nguyên liệu thường là gạo nếp nương. Một biến thể khác của món này là món cơm lam ngũ sắc, có năm màu sắc khác nhau. Sâu chít cũng là một sản vật phổ biến ở đây, thường dùng để ăn, nấu cháo hoặc ngâm rượu, được tiêu thụ mạnh ở vùng xuôi. Các loại gia vị đặc trưng ở đây gồm hạt mắc khén, chẳm chéo và hạt dổi. Tỉnh còn có nhiều món ăn đặc sản khác như: thịt trâu gác bếp, vịt om hoa chuối, khẩu xén, nậm pịa, xôi chim, pa pỉnh tộp,...
Danh sách ẩm thực ở Điện Biên
Pa tỉnh tộp, gà nướng mắc khén, rượu mông pê Tủa Chùa, táo mèo Pha Đin, bánh chưng đen Huổi Só, lạp xưởng hun khói, ngô nếp tím Điện Biên, canh bon, long nhãn Pom Lót, mận Phiêng Ban, xôi nếp nương, chè tuyết Sín Chải, bắp cải cuốn nhót xanh, gà đen Tủa Chùa, dưa mèo, bún khô Thanh An, rau thối, lợn đen mười bốn vú Mường Lay, sâu chít - rượu sâu chít, hạt dổi, mắc khén, chẳm chéo, khẩu xén Mường Lay, khoai sọ Tủa Chùa, thịt lợn hấp lá chuối, gạo tám thơm Điện Biên, măng riềng, hoa đu đủ đực, bánh đa Hoàng Công Chất, gà mọ, khoai sọ Tủa Chùa, gạo lứt đỏ, nộm hoa ban, cá ngần sông Đà, cơm lam, bánh chưng nếp nương, xôi chim Mường Thanh, gỏi cá, vịt om hoa chuối, côn trùng rang, vịt bầu cổ ngắn Tủa Chùa, bí xanh Tìa Dình, nếp cẩm, bánh dày Mông, xôi sắn, mật ong, thịt trâu gác bếp, dứa Mường Chà, rêu đá, măng, nậm pịa, đương quy Tủa Chùa, tiết canh lá bơ mó Mường Luân, rau sắn, lợn cắp nách Tủa Chùa, nếp tan Na Son.
Lễ hội
nhỏ|Ảnh chụp lễ khai mạc lễ hội hoa ban ở Điện Biên năm 2018. Ở Điện Biên có nhiều lễ hội, nổi bật nhất là lễ hội hoa ban và lễ hội thành Bản Phủ. Lễ hội hoa ban Điện Biên thường diễn ra vào giữa tháng 3 hàng năm nhằm giới thiệu, bảo tồn, phát huy các loại hình di sản văn hoá dân tộc ở Điện Biên., được Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh; Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Phát thanh – Truyền hình Điện Biên truyền hình trực tiếp. Các chương trình, hoạt động của lễ hội gồm có: cuộc thi Người đẹp hoa ban, chương trình nghệ thuật Về miền hoa ban, thưởng thức ẩm thực Hương sắc Điện Biên, các cuộc thi đấu thể thao và trò chơi dân gian, các triển lãm tranh, trình diễn trang phục dân tộc, thăm quần thể di tích chiến trường Điện Biên Phủ...
Lễ hội thành Bản Phủ được tổ chức vào ngày 24 đến ngày 25 tháng 2 âm lịch ở thành Bản Phủ để tưởng nhớ thủ lĩnh tướng quân Hoàng Công Chất trong công cuộc giải phóng Mường Then – Điện Biên khỏi sự chiếm đóng của giặc Phẻ.
Một số ngày hội được Điện Biên đăng cai trong những năm qua gồm có Ngày hội Văn hóa, thể thao và Du lịch vùng biên giới Việt Nam – Lào, Ngày hội Văn hóa Dân tộc Thái và Năm du lịch Quốc gia 2004. Cuộc đua xe đạp do Báo Quân đội nhân dân tổ chức vào các năm 2014 và 2019 có hành trình xuất phát từ Hà Nội về Điện Biên Phủ. Vào dịp kỉ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, thành phố này có thể bắn pháo hoa tầm thấp với thời lượng tối đa là 15 phút.
Ngoài ra, Điện Biên còn có nhiều lễ hội, nghi lễ, tập tục của các nhiều đồng bào dân tộc như lễ hội Hạn Khuống của người Thái, Tết cơm mới của người La Hủ, lễ hội mừng măng mọc hay Tết Hoa của dân tộc Cống.
Nghệ thuật
Xoè vòng là điệu múa khá phổ biến trong các hoạt động văn hóa tại tỉnh Điện Biên. Được thể hiện tài tình, khéo léo từ các đôi nam nữ, múa xoè không chỉ là sự kết tinh từ văn hóa cũng như niềm tin vào một cuộc ấm no, mùa màng tốt tươi; mà còn có ý nghĩa gắn kết tình cảm, sự tin tưởng, hay thể hiện biểu cảm, cảm xúc qua từng điệu múa. Xoè vòng là điệu múa xoè phổ biến nhất và được tham gia đông đảo hơn cả do tính đơn giản của nó; và thường được chọn làm tiết mục kết trong các chương trình văn nghệ. Các lớp tập huấn và truyền dạy nghệ thuật xòe Thái đã được tổ chức ở Điện Biên để bảo tồn và phát huy nghệ thuật này.
Giao thông
thumb|
Tính từ ngày 16 tháng 12 năm 2016 đến ngày 15 tháng 9 năm 2017, toàn tỉnh xảy ra 33 vụ tai nạn giao thông, làm chết 21 người, bị thương 31 người.
Hình ảnh
ở xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên Tập tin:Hầm chỉ huy cứ điểm Điện Biên Phủ.jpg|
cứ điểm của quân Pháp
ở Tp. Điện Biên Phủ Tập tin:The local community center in Muong Cha.jpg|
Huyện Mường Chà Tập tin:Mường Lay skyline.jpg|
bên sông Đà Giang Tập tin:Mường Ảng.JPG|
nhìn từ xa Tập tin:A Water stream in Muong Cha.jpg|
Kết nghĩa
- : Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng; tỉnh Hải Dương, thành phố Cần Thơ, tỉnh Thừa Thiên - Huế : Thủ đô Viêng Chăn, tỉnh Oudomxay, tỉnh Luông Pha Băng, tỉnh Phôngsali; : Tỉnh Vân Nam; thủ đô Bắc Kinh : Thủ đô Paris; : Thủ đô Seoul; thành phố Busan : Thủ đô Tokyo. : Thủ đô Phnom Penh, tỉnh Siêm Riệp, Kampong Thom, Kampong Cham, Svay Rieng, Kandal : Thủ đô Bangkok, Thành phố Nakhon Ratchasima, tỉnh Chiang Mai : Thủ đô Washington D.C, Thành phố New York, Tiểu bang Texas, Tiểu bang California, các vùng Caribe, Hawaii, Alaska *: Thủ đô Tonroto