Trang phi Vương Giai thị (chữ Hán: 莊妃王佳氏; ? - 1811), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc.
Tuy không có con cái, nhưng từ Tiềm để cho đến khi nhập cung, Vương Giai thị vẫn giữ được vị trí vững vàng trong hậu cung. Điều này cho thấy mức độ ân sủng không hề nhỏ của Gia Khánh Đế dành cho bà. Điều đáng chú ý là, sau khi qua đời và kim quan được hạ táng, mọi lễ truy điệu của bà đều có sự tham gia của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị, vốn là Chính cung Hoàng hậu thứ hai của Gia Khánh Đế. Có thể nói, sự kiện [Hoàng hậu đích thân đưa kim quan của phi tần đến phi viên tẩm] giữa Trang phi và Hiếu Hòa Hoàng hậu quả thực là sự kiện vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhà Thanh.
Ngoài ra, Vương Giai thị cũng là vị phi tần duy nhất trong lịch sử nhà Thanh có bốn lần thay đổi phong hiệu.
Thân thế không rõ
Trang phi Vương Giai thị, không rõ năm sinh, chỉ biết ngày sinh của bà là vào 15 tháng 6 (âm lịch). Bà cũng không rõ kỳ tịch, cũng không rõ gia tộc hay xuất thân, chỉ biết phụ thân của bà là Văn Cử nhân Y Lý Bố (伊里布).
Cuộc đời
Gia Thân vương Cách cách
Vương Giai thị vào hầu Gia Khánh Đế khi ông còn là Gia Thân vương với thân phận là Cách cách, vì vậy, có lẽ bà xuất thân từ Nội vụ phủ Bao y, cũng chính là Thượng Tam kỳ Bao y. Với tư cách Sử nữ, bà được Gia Thân vương sủng hạnh mà nạp vào Tiềm để. Lúc này trong Gia Thân vương phủ có rất nhiều vị Cách cách, trong đó có Cách cách Lưu thị, Cách cách Hầu thị, Cách cách Lương thị, Cách cách Thẩm thị và Cách cách Quan thị. Bên trên có Trắc Phúc tấn Hoàn Nhan thị, sau này là Trắc Phúc tấn Nữu Hỗ Lộc thị. Chủ mẫu là Đích Phúc tấn Hỉ Tháp Lạp thị.
Đại Thanh Tần phi
Địa vị vững vàng
Năm Gia Khánh nguyên niên (1796), ngày mùng 1 tháng giêng, Càn Long tuyên chiếu thiện nhượng cho Hoàng thái tử Vĩnh Diễm, sử gọi [Gia Khánh Đế]. Gia Khánh Đế tôn Càn Long Đế làm Thái Thượng hoàng. Hoàng đế lập Đích phi Hỉ Tháp Lạp thị làm Hoàng hậu, Trắc phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Quý phi, Cách cách Lưu Giai thị làm Hàm phi, Cách cách Hầu thị phong Doanh tần, Cách cách Lương thị phong Vinh Thường tại. Còn Cách cách Vương Giai thị được sơ phong Thường tại, gọi là Xuân Thường tại (春常在).
Ba năm sau khi được phong Thường tại, tức năm Gia Khánh thứ 4 (1799), Vương Giai thị trở thành Xuân Quý nhân (春贵人).
Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), ngày 8 tháng giêng, căn cứ theo cuốn Chỉ dụ đương, Hoàng Đế đã tấn phong Xuân Quý nhân thành Hòa tần (和嬪). Nhưng không biết vì lí do gì, ngày 14 cùng tháng, lại đổi phong hiệu thành Cát (吉) và Vương Giai thị trở thành Cát tần (吉嫔). Lấy Công bộ thị lang Trát Lang A (扎朗阿) làm Chính sứ, Cử nhân nội các Ngọc Lâm (玉麟) làm Phó sứ, hành lễ sắc phong cho Cát tần. Xét theo Hồng xưng thông dụng của Nội vụ phủ, phong hiệu "Cát" của bà có Mãn văn là 「sabingga」, ý là "Điềm lành", "Lanh lợi".
Sách văn viết:
Năm Gia Khánh thứ 13 (1808), ngày 21 tháng 4 (âm lịch) Hoàng trưởng tôn Dịch Vĩ ra đời, Hoàng đế vui mừng đại phong hậu cung. Cát tần Vương Giai thị chiếu tấn Trang phi (莊妃), cư ngụ tại Dực Khôn cung. Tuy phong hiệu Trang (莊) của bà trùng với phong hiệu trước đây mà Hiếu Trang Văn Hoàng hậu của Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực có được về mặt chữ Hán, nhưng Mãn ngữ hoàn toàn khác nhau. Theo Hồng xưng thông dụng, phong hiệu "Trang" của bà có Mãn văn là 「ujengge」, ý là "Đoan Trang", "Trang trọng". Mệnh Đại học sĩ Lộc Khang (禄康) làm Chính sứ, Cử nhân nội các Ngọc Phúc (玉福) làm Phó sứ, tuyên sách cho Trang phi.
Sách văn viết:
Tuy không thể khai chi tán diệp cho Hoàng gia, nhưng Vương Giai thị từ một thị thiếp nhỏ bé ở Tiềm để vẫn vững vàng lên tới tước Phi, đây là một trường hợp cần rất nhiều sự ân sủng và hậu thuẫn từ phía chính Gia Khánh Đế.
Qua đời
Năm Gia Khánh thứ 16 (1811), ngày 15 tháng 2 (âm lịch), giờ Mão, Trang phi Vương Giai thị bệnh nặng qua đời, kim quan tạm an tại Sướng Xuân viên. Ngày 17 và 21 cùng tháng, Gia Khánh Đế đích thân tới tế lễ. Ngày 12 tháng 3 (âm lịch), kim quan của Trang phi Vương Giai thị được đưa đến Thanh Tây lăng. Ngày 19 thì hạ táng vào Xương lăng Phi viên tẩm. Vì đúng dịp Gia Khánh Đế cũng đang ở Thanh Tây lăng hiếu kính với các Tiên hoàng, nên 2 ngày sau, Hoàng đế lại đích thân đến tế rượu trước mộ phần của bà. Bảo đính của bà nằm ở vị trí thứ hai bên phải của hàng thứ hai, đối xứng với bảo đính của Hoa phi, trung gian ngăn cách là bảo đính của Thứ phi.
Hoàng hậu truy điệu
Một điều bất ngờ trong lễ truy điệu đưa kim quan của Trang phi từ Bắc Kinh đi an táng tại Thanh Tây lăng có sự tham gia của Hiếu Hòa Duệ Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị (Hoàng hậu thứ hai của Gia Khánh Đế). Không chỉ thế, Hoàng hậu cũng có mặt tại lễ hạ táng kim quan xuống địa cung diễn ra sau đó 1 tuần. Hành trình của Hoàng hậu có rất nhiều đại thần đi theo tháp tùng cũng như có sự hỗ trợ của quan viên địa phương.
Việc một Hoàng hậu đích thân đưa tiễn kim quan của phi tần đến Phi viên tẩm là một sự kiện vô tiền khoáng hậu trong lịch sử, hơn nữa còn trái với lễ chế. Huống hồ, Hiếu Hòa Hoàng hậu vốn xuất thân cao quý, lại được cha chồng Càn Long hậu thuẫn, phải nói là vinh quang hiếm ai bì kịp. Còn Trang phi Vương Giai thị bất quá cũng chỉ là một phi tần bình thường, không con không cái lại không được gia thế chống lưng. Vậy mà Hoàng hậu thân giá một tuần theo quan tài của Trang phi, rồi trong Phi viên tẩm chờ đợi quan tài hạ xuống rồi mới trở về, quả thực là độc nhất vô nhị. Tuy nhiên, dựa vào các văn bia và tư liệu, nếu đã có một đoàn tùy tùng đi cùng Hoàng hậu thì hẳn sự việc này phải được sự cho phép hoặc cũng có khi chính là chỉ thị của Hoàng đế.
Hoàng hậu có thể đi theo đoàn truy điệu của Trang phi vạn nhất đều có sự sắp đặt của chính Gia Khánh Đế. Vì vậy, có hai khả năng sau có thể xảy ra:
Một là, Trang phi Vương Giai thị là một phi tần cực kì được sủng ái của Gia Khánh Đế, nên ông mới an bài cho Hoàng hậu đi theo truy điệu. Tuy nhiên, dù sao Hoàng hậu cũng không thể đi đưa tang cho phi tần với vị thế của bà hiện có nên loại khả năng này rất hiếm xảy ra.
Hai là, Hiếu Hòa Hoàng hậu với Trang phi có mối quan hệ cực kì thân thiết. Loại khả năng này lại có thể hơn, Hoàng hậu với Trang phi tình cảm sâu đậm, nên xin Hoàng đế cho phép mình đi theo đưa tang.
Dù là trong trường hợp nào, việc Gia Khánh Đế sắp đặt Hiếu Hòa Hoàng hậu tham dự lễ truy điệu của Trang phi quả thực vẫn là một bí ẩn khó giải thích.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trang phi Vương Giai thị** (chữ Hán: 莊妃王佳氏; ? - 1811), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc. Tuy không có con cái, nhưng từ
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Thứ phi Hoàn Nhan thị** (chữ Hán: 恕妃完颜氏, ? - khoảng năm 1790), là Trắc Phúc tấn đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế khi ông còn là Hoàng tử. ## Thân
**Nghĩa trang quốc gia Arlington** (tiếng Anh: Arlington National Cemetery) là một nghĩa trang quốc gia nằm tại quận Arlington, Virginia, Hoa Kỳ. Được thành lập trên phần đất điền trang cũ của tướng Robert
**Trang phi** (chữ Hán: 莊妃) là một tước hiệu được phong cho các phi tần trong thời phong kiến ở vùng Á Đông. Từ _Trang_ (莊) trong mỹ hiệu mang ý nghĩa là "trang nghiêm,
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
thumb|[[Lệnh Ý Hoàng quý phi (Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu) - sinh mẫu của Gia Khánh Đế.]] **Hoàng quý phi** (phồn thể: 皇貴妃; giản thể: 皇贵妃; bính âm: _Huáng guìfēi_) là một cấp bậc, danh
**Hòa Dụ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 和裕皇贵妃; 9 tháng 1, năm 1761 - 27 tháng 4, năm 1834), Lưu Giai thị, xuất thân Bao y, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia
**Khánh Cung Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慶恭皇貴妃; 12 tháng 8 năm 1724 - 21 tháng 8 năm 1774), Lục thị (陆氏), người Hán, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
**Tuệ Hiền Hoàng quý phi** (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng 1711 - 25 tháng 2, năm 1745), Cao Giai thị (高佳氏), xuất thân Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Hoa phi Hầu Giai thị** (chữ Hán: 华妃侯佳氏, ? - 1804), cũng gọi **Hầu thị** (侯氏), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Bà là một
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
**Thái phi** (chữ Hán: 太妃) là một tước hiệu được sử dụng trong vùng văn hóa chữ Hán, tước Phi có địa vị góa phụ. Về cơ bản khi nhắc đến tước hiệu này, thông
**Thái tử phi** (chữ Hán: 太子妃), là một danh hiệu dành cho chính thê của Thái tử. Danh hiệu này thường được hiểu là hôn phối của Hoàng thái tử, còn gọi đầy đủ là
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thuần Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 純惠皇貴妃, 13 tháng 6, năm 1713 - 2 tháng 6, năm 1760), Tô Giai thị (蘇佳氏), Chính Bạch kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao
**Thường phi Hách Xá Lý thị** (chữ Hán: 常妃赫舍里氏; 31 tháng 12 năm 1808 - 7 tháng 10 năm 1860), là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế. ## Tiểu sử
**Mân Quý phi Từ Giai thị** (chữ Hán: 玫貴妃徐佳氏; 1838 - 1890), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Xuất thân Mân Quý phi Từ Giai thị sinh ngày
**Hiến Triết Hoàng quý phi** (chữ Hán: 獻哲皇貴妃; 2 tháng 7, năm 1856 - 5 tháng 2, năm 1932), Hách Xá Lý thị, cũng được gọi rằng **Kính Ý Thái phi** (敬懿太妃), là một trong
**Tường phi Nữu Hỗ Lộc thị** (chữ Hán: 祥妃鈕祜祿氏; 9 tháng 2, năm 1808 - 15 tháng 2, năm 1861), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
**Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Việt Nam** () là đội tuyển bóng đá bãi biển do Liên đoàn bóng đá Việt Nam quản lí, đại diện cho Việt Nam thi đấu giải
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
Một đòn đá thẳng trong võ Tân Khánh Bà Trà đang được các môn sinh luyện tập. **Tân Khánh Bà Trà** hay **Bà Trà - Tân Khánh** hay **Võ Lâm Tân Khánh Bà Trà** (người
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. ## Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa trái|nhỏ|Tháp Po Nagar,
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
**Phạm Phi Nhung** (10 tháng 4 năm 1970 – 28 tháng 9 năm 2021), ### Sự nghiệp phát triển Vào tháng 10 năm 1989, Phi Nhung được sang Mỹ theo diện con lai và cư
**Hiếu Trang Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝莊文皇后; ; 28 tháng 3, 1613 - 27 tháng 1, 1688), thường được gọi là **Hiếu Trang Thái hậu** (孝莊太后), **Chiêu Thánh Thái hậu** (昭聖太后) hoặc **Hiếu Trang
**Trương quý phi** (chữ Hán: 張貴妃; 1024 - 1054), còn gọi **Ôn Thành Hoàng hậu** (溫成皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Tống Nhân Tông Triệu Trinh. Cuộc đời Trương quý phi
**Ý An Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 懿安皇后, 780 - 25 tháng 6, năm 848), còn được gọi là **Quách Quý phi** (郭貴妃) hay **Quách Thái hậu** (郭太后), là nguyên phối của Đường Hiến Tông
**Hòa Thạc Trang Kính Công chúa** (Giản thể: 和硕庄敬公主, Phồn thể: 和碩莊敬公主, 30 tháng 1 năm 1782 - 4 tháng 4 năm 1811), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ ba của Gia Khánh
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Thư viện Quốc gia Pháp** (_Bibliothèque nationale de France_) là thư viện quan trọng nhất, đồng thời là cơ quan giữ chức năng lưu chiểu xuất bản phẩm của Pháp. Với vai trò thư viện
**Trang Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 莊靜皇貴妃; 27 tháng 2 năm 1838 - 15 tháng 11 năm 1890), thường được gọi là **Lệ phi** (麗妃), là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm
**Viên Gia Quân** (tiếng Trung giản thể 袁家军; bính âm Hán ngữ: _Yuán Jiā Jūn_, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1962, người Hán) là nhà khoa học hàng không vũ trụ, chuyên gia kỹ
**Nguyễn Đức Khánh** (1932-1996), nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Là dân chính được tuyển thẳng vào Quân chủng Không quân. Ông xuất
Làng nghề dệt choàng Long Khánh (huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp) nổi tiếng với những chiếc khăn rằn Nam bộ nay khoác lên mình diện mạo mới, nhộn nhịp hơn xưa.Lễ đón nhận Di
**Trương Phi** (, 163-221), tự **Ích Đức** (益德), _Tam quốc diễn nghĩa_ ghi là **Dực Đức** (翼德) , là danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong tiểu thuyết
**Độc Cô Quý phi** (chữ Hán: 獨孤貴妃, ? - 3 tháng 11, năm 775), còn gọi là **Trinh Ý Hoàng hậu** (貞懿皇后), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Đại Tông Lý
thumb|[[Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Quảng trường Ba Đình
Ghi âm ngày 2 tháng 9 năm 1945]] **Ngày Quốc khánh
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Vương phi** (chữ Hán: 王妃; Kana: おうひOuhi; Hangul: 왕비Wangbi; tiếng Anh: Princess consort), là phong hiệu biến thể của Phi theo hệ thống tước vị. Thông thường đây là tước vị dành cho những người
**Dung phi Hòa Trác thị** (chữ Hán: 容妃和卓氏; 11 tháng 10, năm 1734 - 24 tháng 5, năm 1788), hoặc **Hoắc Trác thị** (霍卓氏), người Duy Ngô Nhĩ, nổi tiếng là phi tần người Hồi
**Sân vận động Quốc gia Costa Rica** () là một sân vận động đa năng trong Công viên đô thị La Sabana, San José, Costa Rica. Đây là đấu trường thể thao và sự kiện
**Gia Cát Lượng** (; 181 – 234), biểu tự **Khổng Minh** (孔明), hiệu **Ngọa Long** (臥龍), là Thừa tướng, công thần khai quốc, nhà chính trị, nhà ngoại giao, chỉ huy quân sự, nhà giáo