✨Trần Danh Án

Trần Danh Án

Trần Danh Án (陳名案, 1754–1794), tự Liễu Am (了庵), hiệu Tản Ông (散翁); là nhà thơ và là quan viên nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả của "Nam phong giải trào", một công trình sưu tập ca dao được nhiều nhà nghiên cứu xem là xưa nhất.

Hành trạng trong lịch sử

Trần Danh Án là người làng Bảo Triện, huyện Gia Bình, trấn Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng, có nhiều người làm quan lớn trong triều. Ông nội là Tiến sĩ Trần Phụ Dực, làm quan đến chức Tư huấn Quốc Tử Giám, tham gia soạn "Đại Việt sử ký tục biên". Bác ruột ông là Tiến sĩ Trần Danh Ninh và cha ông là Tiến sĩ Trần Danh Lâm (cùng đỗ Tiến sĩ năm 1731), cùng làm quan đồng triều và đều trải đến chức Thượng thư.

Thời niên thiếu, Trần Danh Án có tiếng thông minh học giỏi. Năm cuối Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông (1786), ông thi Hương đỗ Giải nguyên. Năm Chiêu Thống thứ nhất (1787), ông thi đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi (khoa thi cuối cùng của triều Hậu Lê), được bổ chức quan Hàn lâm viện Hiệu lý.

Bấy giờ, vua Lê dựa vào thế lực của quyền thần Nguyễn Hữu Chỉnh, dẹp tan tàn dư thế lực của chúa Trịnh, nhân cơ hội anh em Tây Sơn bất hòa, mưu đồ tái lập thế lực ở Bắc Hà, thoát ly áp lực ở phía Nam. Trần Danh Án được xét công phò vua, được phong tước Định Nhạc bá.

Phía Tây Sơn biết được, cử tướng Vũ Văn Nhậm kéo quân ra Bắc, diệt trừ thế lực của Nguyễn Hữu Chỉnh. Tháng 12 (âl) năm Đinh Mùi (1788), quân Tây Sơn kéo đến Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh nửa đêm trốn từ Thanh Quyết về Thăng Long, thu gom tàn quân, hộ tống vua Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy lên Kinh Bắc.

Trần Danh Án cùng một số ít triều thần tòng vong theo vua. Vua Lê cố gắng chiêu tập quân cần vương đánh lại quân Tây Sơn, nhưng đều thất bại. Bản thân Nguyễn Hữu Chỉnh sau đó cũng bị quân Tây Sơn bắt được, đưa về Thăng Long xé xác trước cổng thành.

Đến lượt Vũ Văn Nhậm sau khi đánh bại hầu hết quân cần vương lại ra mặt chuyên quyền mọi việc ở Bắc Hà. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ cũng bất bình với hành động tự lập của Vũ Văn Nhậm, tháng 4 (âl) năm Mậu Thân (1788), kéo quân ra Bắc, bắt giết Vũ Văn Nhậm. Tuy vậy, vì chưa tìm ra được vua Lê, nên Nguyễn Huệ tôn Hoàng thân Lê Duy Cẩn làm Giám quốc, giữ việc thờ cúng, giao Đại tư mã Ngô Văn Sở nắm giữ chính quyền, thống lĩnh quân đội, trông coi 11 trấn Bắc Hà.

Bấy giờ, trước thế lực hùng mạnh của quân Tây Sơn, Thái hậu Nguyễn thị cùng với nguyên tử đào vong đến Cao Bằng, được đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống, hộ tống qua cửa ải Thủy khẩu chạy sang Long Châu của nhà Thanh, gặp Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị gào khóc xin cứu viện. Thanh đế Càn Long theo lời tấu của Tôn, mưu chiếm lấy Đại Việt, nên cho Tôn đều động quân lính bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Quý Châu, để mượn danh cứu viện sang xâm lược. Tôn cho phát hịch văn, đồng thời gửi mật thư, sai Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Đống về báo vua Lê Chiêu Thống.

Nhân được mật thư, vua Chiêu Thống đã sai Trần Danh Án, bấy giờ được phong là Tham tri chính sự, cùng với hoàng thân Lê Duy Đản, chức Hàn lâm hiệu thảo, mang theo tờ bẩm, đi đường tắt, đi lên đón quân Thanh. Sợ bị quân Tây Sơn phát hiện, hai ông chỉ mang theo vài thân tín, đội nón cũ, mặc áo rách như thường dân đi đường, theo đường tắt trong núi, qua cửa ải Lạng Sơn mà đi. Hai ông sang đến Nam Ninh, hội kiến Tôn Sĩ Nghị, rồi cùng hơn 20 vạn quân Thanh tiến vào lãnh thổ Đại Việt.

Quân Thanh rầm rộ tiến sang Đại Việt, thắng lợi nhanh chóng, bức quân Tây Sơn lùi về Tam Điệp phòng thủ, tái chiếm được Thăng Long. Vua Chiêu Thống giành lại được ngai vàng, phong cho Trần Danh Án là Tĩnh nạn công thần, tước Định Nhạc hầu, thăng chức Phó đô ngự sử. Tuy nhiên, không lâu sau, mùa xuân 1789, Quang Trung lên ngôi Hoàng đế, chỉ huy quân Tây Sơn đại phá quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống phải đào vong sang Trung Quốc, còn Trần Danh Án thì lẻn trốn về quê nhà.

Vua Quang Trung bảo Ngô Thời Nhiệm viết thư triệu Trần Danh Án. Ông đáp lại, từ chối, sau bị bắt giam lỏng ở Thăng Long, cũng không đổi chí, hàng ngày làm thơ thoá mạ Tây Sơn: "Thử sinh tuy nhuận sài lang vẫn, Túng tử nan vị cẩu trệ tâm". Danh lợi, uy vũ đều không làm cho Trần Danh Án sợ hãi hay thoái chí. Nhưng rồi người ta cũng nể ông là bậc sĩ phu, có tiết tháo nên để cho ông sống cuộc đời nhàn tản, không ai phiền luỵ đến.

Sách Lê quý dật sử chép:

:Tây Sơn vời Trần Án (tức Trần Danh Án), tiến sĩ nhà Lê vào chầu. Án làm thơ cố ý cáo bệnh từ chối không đến. Vua Tây Sơn (Nguyễn Huệ) phê bằng son đỏ rằng: Cho được làm theo chí hướng cao thượng. :(Trần Danh) Án có thơ (dịch nghĩa): :Vô tri như loài ông, kiến còn có vua tôi. :Loài vật kia còn như thế, huống chi ta là người. :Họ Khấu, họ Đặng. gặp vận khá, được phò ngôi vua Hán; :Họ Tạ, họ Văn vận suy hổ thẹn làm dân nhà Nguyên. :Trời nếu không có ý cho vua (chỉ Lê Chiêu Thống) sống trở về :Ta cũng cam tâm làm tử thần. :Mong được đời sau đề lên mộ chí, :Đây là mộ tiến sĩ triều Lê họ Trần.

Năm 1793, vua Lê Chiêu Thống qua đời ở Trung Quốc.

Nghe tin vua mất và mưu đồ phục quốc cũng tan tành, Trần Danh Án rất đau buồn, đến năm sau thì mất (1794). Lúc đó, ông mới 40 tuổi.

Văn tế Trần Danh Án do người bạn của ông là Vũ Trinh-Tham tri Chính sự triều Lê Trung hưng soạn, có đoạn viết về ý chí của Trần Danh Án:

"Thần có lòng son nâng đất chống trời, mệnh thần không còn, với thần thế là hết.

Thần có máu nóng để đo gươm giáo, chí thần không toại, đời chẳng còn gì."

Tác phẩm

Tác phẩm của Trần Danh Án có: *Liễu Am thi tập* (Tập thơ Liễu Am; còn có các tên khác là: Liễu Am Tản Ông thi tập, Bảo Triện Trần Hoàng Giáp thi thảo, Bảo Triện Trần Hoàng giáp thi tập). Đây là tác phẩm chính của ông, được sáng tác khoảng từ 1788 cho đến trước khi mất (1794), gồm 141 bài thơ gồm những bài thơ đề vịnh, cảm tác, đi sứ, thù tặng, thơ họa đáp...Ngoài ra, trong tập còn có 2 bức thư chữ Hán bày tỏ tâm tư, cảnh ngộ từ lúc theo vua Lê Chiêu Thống khôi phục ngai vàng cho đến sau khi nhà Hậu Lê thất bạị. Bảo Triện Trần Hoàng giáp thi văn tập (Tập thơ của Hoàng giáp họ Trần ở Bảo Triện), gồm những bài thơ, văn, phú, câu đối... Lịch đại chính yếu luận (bàn về những điều chính yếu qua các đời). Đây là một tập luận văn có tính chất sử học, dùng nhiều thể văn (kể cả văn sách) để bàn luận về các chính sách quan trọng của các triều đại phong kiến, chủ yếu là từ nhà Đinh đến nhà Trần. Nam phong giải tràoNam phong nữ ngạn thi** (Ngạn ngữ bằng thơ về nữ giới trong phong dao nước Nam). Đây là hai quyển chép ca dao, tục ngữ Việt Nam do ông sưu tầm, ghi bằng chữ Nôm, một phần dịch sang chữ Hán.

Nhận xét

Trần Danh Án gắn bó sâu sắc với nhà Hậu Lê. Vì vậy, khi triều đại này sụp đổ, ông cảm thấy đau xót, bất hợp tác với triều Tây Sơn. Nhưng dường như ông cũng cảm thấy triều đại mới này có những cái tốt đẹp không thể phủ nhận được, cho nên ông không có bài nào mạt sát hay đả kích triều Tây Sơn. Mâu thuẫn là ở chỗ ấy...Nhìn chung, thơ văn ông là hình ảnh khá chân thật của một tầng lớp quý tộc, bất lực với thời cuộc mà trong tâm lý vẫn không muốn thừa nhận điều đó.

Vinh danh

Tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội thảo khoa học truyền thống khoa bảng dòng họ Trần Danh và danh nhân Trần Danh Án, khẳng định những đóng góp to lớn và thiết thực trên nhiều lĩnh vực đối với quê hương, đất nước của các vị Tiến sĩ Nho học dòng họ Trần Danh ở Phương Triện.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Danh Án** (陳名案, 1754–1794), tự **Liễu Am** (了庵), hiệu **Tản Ông** (散翁); là nhà thơ và là quan viên nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là tác giả của "Nam
phải|Quân [[Liên bang miền Bắc Hoa Kỳ|Liên bang miền Bắc xung phong]]Trong 4 năm của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ quân Liên bang miền Bắc và quân Liên minh miền Nam đánh nhau trong nhiều
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
thumb|upright=1.4|Bức tranh vẽ Trận Oroi-Jalatu năm 1758, trong đó [[nhà Thanh đánh bại Dzungar.]] Đây là **bảng danh sách liệt kê các trận đánh và chiến tranh** trong lịch sử Trung Quốc, được hệ thống
**Trận An Lộc** là trận chiến tại An Lộc. Đây là một trận chiến mà phía Việt Nam Cộng hòa xem là đợt 2 trong Chiến dịch Hè 1972 hay "Mùa Hè Đỏ Lửa" trong
**Trần Danh Lâm** (1704-1776) là đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Danh Lâm người làng Bảo Triện huyện Gia Định, nay là thôn Phương Triện xã
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, cuộc vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh trong lịch sử Việt Nam, diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam, qua các triều đại và
Danh sách các thị trấn ở Ấn Độ dưới đây dựa trên số liệu của cuộc điều tra dân số năm 2011 của Văn phòng Ủy viên Tổng điều tra và Thống kê Dân số
**Trần Kiều Ân** (Tiếng Anh: **Joe Chen;** chữ Hán phồn thể: 陳喬恩; chứ Hán giản thể: 陈乔恩; Bính âm: _Chénqiáo'ēn_; sinh ngày 4 tháng 4 năm 1979) là một nữ diễn viên, ca sĩ và
**Trần Văn Ân** (1922–2012), bí danh **Trần Tình** là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 4. ## Hoạt động cách mạng Trần Văn Ân sinh ngày
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Mặt trận Miến Điện 1944 - 1945** là các chiến dịch quân sự diễn ra tại Miến Điện trong Chiến tranh thế giới thứ hai từ tháng 11 năm 1944 đến tháng 8 năm 1945
**Trần** () là một họ người Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Việt Nam, Hàn Quốc, Singapore và một số nơi khác trên thế giới. Họ Trần là họ phổ biến nhất tại miền Nam
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Trận Poltava** (, ), còn gọi là **Trận đánh Pultowa**, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga
**Trận Tốt Động – Chúc Động** hay **Trận Tụy Động** là một trận đánh diễn ra từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 11 năm 1426 giữa nghĩa quân Lam Sơn và quân đội nhà
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
Chiến trường Quảng Trị năm 1972 **Mặt trận Trị Thiên Huế năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. Kết thúc năm 1972, với các diễn biến
**Trận Singapore** hay **chiến dịch Singapore** là trận đánh diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Đế quốc Nhật Bản và khối Liên hiệp Anh từ ngày 8 tháng 2 đến ngày
**Trận Ia Đrăng** là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến
**Trận Đồi Thịt Băm** hay **trận A Bia** là tên gọi của trận chiến giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Mỹ từ ngày 10
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Trận Crete** (; ) là một trận đánh diễn ra tại đảo Crete của Hy Lạp giữa quân đội Đức Quốc xã và quân đội Đồng Minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, bắt
**Trận El Alamein thứ nhất** (1–27 tháng 7 năm 1942) là một trận đánh thuộc Chiến dịch Sa mạc Tây trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra trên bờ biển phía bắc Ai
**Trận Agincourt** (; ) là một trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm Năm giữa Anh với Pháp. Trận đánh diễn ra ngày 25 tháng 10 năm 1415 (Ngày Thánh Crispin) gần Azincourt, ở
**Trận Gazala** là một trận chiến quan trọng thuộc Chiến dịch Sa mạc Tây trên Mặt trận Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, diễn ra xung quanh thành phố cảng Tobruk tại
**Mặt trận Srem** (, ) là tuyến phòng thủ vững chắc của Wehrmacht và Quân lực Croatia nằm tại Srem và Đông Slavonia trong Thế chiến thứ hai từ 23 tháng 10 năm 1944 đến
**Trận Tam giác sắt** diễn ra từ ngày 16 tháng 5 đến ngày 20 tháng 11 năm 1974, khi Sư đoàn 9 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh chiếm Rạch Bắp và
**Chiến dịch giải phóng Nghệ An** là một chiến dịch lớn của nghĩa quân Lam Sơn thực hiện trong các năm 1424-1425 nhằm giải phóng lãnh thổ, thành lập chiến khu vững mạnh mới thay
**Mặt trận chính Bắc Tây Nguyên và mặt trận phối hợp Bắc Bình Định năm 1972** là một trong các chiến trường chính của Chiến tranh Việt Nam năm 1972. ## Mặt trận chính Bắc
**Trận Đại đồn Chí Hòa**, hay còn được gọi là **Trận Đại đồn Kỳ Hòa**, là một trận đánh xảy ra tại Sài Gòn, Nam Kỳ vào 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm
**Trận El Alamein thứ hai** diễn ra trong vòng 20 ngày từ 23 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1942 ở gần thành phố duyên hải El Alamein của Ai Cập, và chiến thắng
**Trận Ấp Bắc** là một trận đánh quy mô khá lớn diễn ra vào giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Hoa Kỳ với kết quả là chiến thắng lớn đầu
**Trận Hồng Kông** (8-25 tháng 12 năm 1941), được biết đến với tên gọi là **Phòng thủ Hồng Kông** hay **Hồng Kông thất thủ** là một trong những trận đánh đầu tiên của Chiến tranh
**Trận Verdun** là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19
**Trận Leyte** trong chiến dịch Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc đổ bộ và chiến đấu giành sự kiểm soát Leyte thuộc quần đảo Philippines bởi lực lượng Mỹ
**Trận sông Nin** (còn được gọi là **Trận vịnh Aboukir**, trong tiếng Pháp là _Bataille d'Aboukir_ hoặc trong tiếng Ả Rập Ai Cập là معركة أبي قير البحرية) là một trận hải chiến lớn đã
**Trận Okinawa** (tiếng Anh: Battle of Okinawa, tiếng Nhật: 沖縄戦, Okinawa-sen), hay còn gọi là **chiến dịch Iceberg** (**chiến dịch Băng Sơn**) là trận đánh thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế
**Trận Hà Lan** () là một phần trong "Kế hoạch Vàng" () - cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã vào Vùng đất thấp (Bỉ, Luxembourg, Hà Lan) và Pháp trong chiến tranh thế giới
**Trận Peleliu** có mật danh là **Chiến dịch Stalemate II** là một trận chiến giữa quân đội Hoa Kỳ và Nhật Bản trong chiến tranh Thái Bình Dương, Thế chiến thứ 2 diễn ra từ
**Trận đồi A1** là trận đánh mở màn ngày 31 tháng 3 năm 1954, là một trong những trận đánh quan trọng trong giai đoạn 2 và giai đoạn 3 của chiến dịch Điện Biên
**Trận Bắc Ninh** hay **Trận Pháp đánh thành Bắc Ninh** là một phần của cuộc chiến tranh Pháp-Việt 1858-1884 diễn ra từ ngày 7 tháng 3 năm 1884 và kết thúc vào ngày 12 tháng
**Cuộc bao vây Leningrad** là cuộc phong tỏa quân sự của quân đội Đức Quốc xã đối với thành phố Leningrad (hiện nay là Sankt-Peterburg), đồng thời là cuộc phòng thủ dài ngày nhất trong
**Trận Thành cổ Quảng Trị** () là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam với Quân đội
**Trận Rạch Gầm – Xoài Mút** () là một trận chiến lớn trên sông diễn ra vào đêm 19 rạng sáng ngày 20 tháng 1 năm 1785 giữa liên quân Xiêm – Nguyễn và quân
**Trận Rotterdam** là một trận đánh thuộc chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra từ ngày 10 đến 14 tháng 5 năm 1940, là một phần trong cuộc xâm chiếm Hà Lan của Đức.
**Trận Gaugamela** (tiếng Hy Lạp: _Γαυγάμηλα_) còn gọi là **trận Arbela**, diễn ra vào ngày 1 tháng 10 năm 331 trước Công nguyên, giữa liên quân Hy Lạp do vua xứ Macedonia Alexandros III chỉ
**Trận Vũ Hán** () hay **Trận phòng thủ Vũ Hán** () theo cách gọi của người Trung Quốc và **Cuộc tấn công Vũ Hán** () theo cách gọi của người Nhật là một trận đánh
**Trận Hải Phòng** là trận đánh diễn ra từ ngày 20 tháng 11 đến 26 tháng 11 năm 1946 và từ ngày 20 tháng 12 năm 1946 đến 25 tháng 4 năm 1947 ở khu